id
int64
2
19.8M
revid
stringlengths
1
8
url
stringlengths
37
44
title
stringlengths
1
250
text
stringlengths
2
259k
19,822,551
479787
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822551
Trường Đại học Luật
Trường Đại học Luật có thể là:
19,822,554
479787
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822554
Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật
Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật có thể là:
19,822,561
521768
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822561
Máy bay trinh sát
Máy bay trinh sát, hay còn gọi là máy bay do thám, là một loại máy bay quân sự được thiết kế hoặc sửa đổi/hoán cải để thực hiện trinh sát trên không với các nhiệm vụ: thu thập thông tin tình báo hình ảnh (bao gồm chụp ảnh từ trên không), thông tin tình báo tín hiệu, thông tin tình báo đo lường, dấu hiệu và ký hiệu. Công nghệ hiện đại cũng cho phép một số máy bay và UAV thực hiện giám sát thời gian thực bên cạnh việc thu thập thông tin tình báo chung. Trước khi có sự phát triển của thiết bị radar, các lực lượng quân sự đã dựa vào máy bay trinh sát để quan sát trực quan và theo dõi chuyển động của kẻ thù. Ví dụ như tàu bay tuần tra hàng hải PBY Catalina được Hải quân Hoa Kỳ sử dụng trong chiến tranh thế giới thứ hai đã phát hiện một phần hạm đội tàu chiến Nhật Bản đang tiến đến đảo Midway để bắt đầu trận đánh Midway. Lịch sử. Trước thế kỷ 20, các lực lượng quân sự trên thế giới không có những phương tiện bay sử dụng động cơ năng lượng và có thể điều khiển được, vì vậy họ phải sử dụng phương tiện bay nhẹ hơn không khí. Trong chiến tranh Napoléon và chiến tranh Pháp-Phổ, khinh khí cầu được người Pháp sử dụng để trinh sát trên không. Trong chiến tranh thế giới thứ nhất, máy bay đã được triển khai trong giai đoạn đầu của cuộc chiến với vai trò trinh sát, nó được ví như 'con mắt của quân đội' để hỗ trợ lực lượng chiến đấu mặt đất. Việc trinh sát trên không từ thời điểm này cho đến năm 1945 hầu hết được thực hiện bởi các phiên bản cải tiến của máy bay tiêm kích và máy bay ném bom tiêu chuẩn có trang bị máy ảnh. Chụp ảnh trở thành phương pháp chủ yếu để thu thập thông tin tình báo vào thời kỳ cuối chiến tranh thế giới thứ hai. Thế chiến I cũng chứng kiến việc sử dụng thủy phi cơ để xác định vị trí tàu chiến đối phương. Sau trận đánh Jutland, tàu tiếp nhiên liệu thủy phi cơ bộc lộ nhiều điểm hạn chế, do đó tàu chiến chủ lực được thiết kế thêm để có khả năng mang, phóng và thu hồi thủy phi cơ quan sát. Loại thủy phi cơ này có thể trinh sát tàu chiến đối phương nằm ngoài tầm nhìn của thiết bị quan sát trên tàu mặt nước, và nó có thể phát hiện điểm rơi của đạn pháo trong các cuộc giao tranh tầm xa. Sau Thế chiến II, thủy phi cơ quan sát được thay thế bằng máy bay trực thăng. Thời kỳ hậu Thế chiến II và trong Chiến tranh Lạnh, Hoa Kỳ đã phát triển một số máy bay trinh sát chuyên dụng như Lockheed U-2 và Lockheed SR-71 Blackbird, mục đích là để giám sát kho vũ khí hạt nhân của Liên Xô. Các loại máy bay trinh sát khác được chế tạo cho các vai trò chuyên biệt trong tình báo tín hiệu và giám sát điện tử, chẳng hạn như RB-47, RB-57, Boeing RC-135 và máy bay không người lái Ryan Model 147. Kể từ Chiến tranh Lạnh đến nay, phần lớn vai trò của máy bay trinh sát chiến lược được giao cho các vệ tinh trinh sát đảm nhiệm, còn vai trò trinh sát chiến thuật thì do máy bay không người lái (UAV) đảm nhiệm. Điều này đã được quân đội Israel và quân đội Mỹ sử dụng thành công trong chiến tranh Vùng Vịnh.
19,822,566
883941
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822566
Oscar Piastri
Oscar Jack Piastri (sinh ngày 6 tháng 4 năm 2001) là một tay đua người Úc. Anh đã giành chức vô địch Công thức 3 vào năm 2020 và Công thức 2 vào năm 2021 với Prema Racing. Anh là tay đua thứ sáu giành chức vô địch giải đua xe GP2/Công thức 2 ngay tại mùa giải đầu tiên và cũng là tay đua thứ năm giành chức vô địch giải đua xe GP3/Công thức 3 và giải đua xe GP2/Công thức 2 trong các mùa giải liên tiếp. Sau khi tham gia Công thức 1 với tư cách là tay đua lái thử cho đội đua Alpine vào năm 2022, anh trở thành tay đua chính của McLaren vào năm 2023 cùng với đồng đội mới Lando Norris. Nhờ những thành tích đạt được ở các giải đua xe công thức hạng thấp hơn, anh được nhiều người coi là một trong những tay đua trẻ triển vọng nhất trong làng đua xe. Sự nghiệp. Sự nghiệp tiền Công thức 1 (2011-2021). Đua xe kart (2011-2015). Piastri bắt đầu sự nghiệp đua xe ô tô điều khiển từ xa ở cấp quốc gia khi anh bắt đầu đua xe kart vào năm 2011. Sau khi thi đấu chuyên nghiệp và thi đấu tại nhiều cuộc đua và các giải vô địch Úc vào năm 2014, Piastri bắt đầu tranh tài ở châu Âu và các giải vô địch đua xe kart được CIK-FIA chấp thuận khác với Ricky Flynn Motorsport vào năm sau đó. Vào năm 2016, anh chuyển đến Vương quốc Anh để tiếp tục sự nghiệp đua xe của mình và cũng vào năm đó, anh về đích thứ sáu tại giải vô địch thế giới đua xe kart 2016 tại Bahrain. Thống kê thành tích. Thống kê chi tiết. Sự nghiệp Công thức 1 (2023-nay). Chú thích mở rộng cho các bảng trên:
19,822,582
536098
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822582
Võ Kim Cương
Kim Cương tên đầy đủ là Võ Kim Cương (sinh năm 1986 tại Cần Thơ) là một siêu mẫu người Việt Nam. Cô đoạt giải bạc Siêu mẫu Việt Nam 2008.
19,822,583
912316
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822583
Xolo Maridueña
Ramario Xolo Ramirez (sinh ngày 9 tháng 6 năm 2001, nghệ danh: Xolo Maridueña, ) là nam diễn viên người Mỹ. Anh từng đóng các vai Miguel Diaz trong "Cobra Kai" (Netflix, 2018–nay), Victor Graham trong "Parenthood" (NBC, 2012–2015). Năm 2023, anh thủ vai Jaime Reyes/Blue Beetle trong phim siêu anh hùng "Blue Beetle" của Vũ trụ Mở rộng DC (2023). Tiểu sử. Maridueña sinh ra tại thành phố Los Angeles, California trong một gia đình có năm anh chị em. Anh là người gốc Mexico, Cuba và Ecuador. Tên Ramario là ghép từ tên hai người chú Ramón và Mario của anh. Sự nghiệp. Công việc đầu tiên của Xolo là làm người mẫu ảnh cho hãng thời trang Sears. Năm 2018, anh thủ vai Miguel Diaz trong sê-ri phim Netflix, Cobra Kai. Năm 2023, anh vào vai Blue Beetle trong phim điện ảnh cùng tên của DCEU, đây là lần đầu tiên một nhân vật siêu anh hùng gốc Latinh được đưa lên phim người đóng.
19,822,588
889492
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822588
Ellsworth Dougherty
Ellsworth C. Dougherty (21 tháng bảy 1921 – 1965) là một nhà sinh vật học, người đầu tiên nghiên cứu loài giun tròn "Caenorhabditis elegans" trong phòng thí nghiệm, cùng với Victor Nigon vào những năm 1940. Ông thực hiện hầu hết các nghiên cứu của mình và hoạt động y tế tại California. Tưởng niệm. Mount Dougherty là một rặng núi tại Nam Cực, được đặt tên theo Ellsworth Dougherty. Một tên gọi cụ thể được đặt cho loài giun tròn "Caenorhabditis doughertyi" cũng là để tưởng niệm E. Dougherty.
19,822,604
925152
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822604
Ngân hàng Thương mại cổ phần Bắc Á
Ngân hàng TMCP Bắc Á, thường được biết đến với cái tên Ngân hàng Bac A Bank vốn là viết tắt cho tên giao dịch , là ngân hàng thương mại lớn nhất Việt Nam với tổng tài sản 131.000 tỷ đồng.
19,822,610
725478
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822610
Terbi(III) fluoride
Terbi(III) fluoride là một hợp chất vô cơ có công thức hóa học TbF3. Chất rắn màu trắng/xám này khó tan trong nước. Nó có thể được tạo ra bằng phản ứng giữa terbi(III) carbonat và 40% acid fluorhydric ở 40 °C. Ứng dụng. Terbi(III) fluoride được sử dụng để sản xuất terbi.
19,822,614
458684
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822614
Tiểu tổ Cách mạng Văn hóa Trung ương
Tiểu tổ Cách mạng Văn hóa Trung ương (), ngắn gọn là Tiểu tổ Văn cách Trung ương (), là một tổ chức được thành lập vào tháng 5 năm 1966 nhằm thay thế Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc và "Ngũ nhân tiểu tổ", ban đầu nằm dưới quyền Ban Thường vụ Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc. Tiểu tổ bao gồm nhiều nhân vật có tư tưởng cực tả ủng hộ Mao Trạch Đông; bao gồm Trần Bách Đạt, Giang Thanh, Khang Sinh, Diêu Văn Nguyên, Trương Xuân Kiều, Vương Lực và Tạ Phú Trị. Tổ chức này giữ vai trò trung tâm trong những năm đầu của Cách mạng Văn hóa, thậm chí từng thay thế Ban Thương vụ Bộ Chính trị trong một thời gian và trở thành cơ quan quyền lực nhất trên thực tế.
19,822,630
776872
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822630
Binh đoàn Lê dương Quốc tế (Ukraine)
Binh đoàn Lê dương Quốc tế, Lực lượng Phòng thủ Nội địa Ukraine (tiếng Anh: International Legion of Territorial Defence of Ukraine, tiếng Ukraine: Інтернаціональний легіон територіальної оборони України, "Internatsionalnyi lehion terytorialnoi oborony Ukrainy"), hay Binh đoàn Lê dương Ukraine, là một đơn vị quân sự nước ngoài thuộc Lực lượng Phòng thủ Nội địa của Ukraine. Đơn vị này được thành lập vào ngày 27 tháng 2 năm 2022 bởi Chính phủ Ukraine theo đề nghị của Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelenskyy nhằm đối phó với chiến dịch xâm lược của Nga vào Ukraine. Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Ukraine Dmytro Kuleba tuyên bố rằng đến ngày 6 tháng 3 năm 2022, đã có hơn 20.000 tình nguyện viên từ 52 quốc gia nhập ngũ để chiến đấu cho Ukraine; vài nghìn người khác được cho là đã tham gia sau Kuleba đưa ra thông báo trên. Kuleba không công bố chi tiết thêm về các tình nguyện viên từ các quốc gia khác, với lý do rằng một số quốc gia cấm công dân của họ gia nhập lực lượng quân sự của các chính phủ nước ngoài. Tuy nhiên, một cuộc điều tra của tờ New York Times vào tháng 3 năm 2023 cho thấy đơn vị này có thể chỉ có 1.500 thành viên, nhiều người trong số đó thậm chí đã nói dối về việc tham gia chiến đấu trực tiếp hoặc lợi dụng cuộc chiến để làm các điều bất hợp pháp. Đến tháng 11 năm 2022, binh đoàn bao gồm các thành viên đến từ hơn 60 quốc gia khác nhau. Tổ chức. Một số tờ báo đưa tin rằng Mamuka Mamulashvili, chỉ huy Binh đoàn Lê dương Georgia, là tổng chỉ huy trưởng toàn bộ các đơn vị tình nguyện nước ngoài của Binh đoàn Lê dương Quốc tế, nhưng các quan chức và chính phủ Ukraine vẫn chưa đưa ra tuyên bố xác nhận cho thông tin trên. Danh sách đơn vị. Các đơn vị và quốc tịch tương ứng đã được cho là thuộc biên chế của Binh đoàn Lê dương Quốc tế:
19,822,631
832640
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822631
Tổng giáo phận Jakarta
Tổng giáo phận Jakarta (; ) là một tổng giáo phận của Giáo hội Latinh trực thuộc Giáo hội Công giáo Rôma, quản lí vùng Java ở Indonesia. Nhà thờ chính tòa của tổng giáo phận là Nhà thờ chính tòa Đức Mẹ lên trời tại thủ đô Jakarta.
19,822,633
70585409
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822633
Thị (định hướng)
Thị trong tiếng Hán có nghĩa là nhìn. Ngoài ra có thể là:
19,822,635
912316
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822635
MIM-72 Chaparral
Hệ thống Tên lửa đất đối không MIM-72A/M48 Chaparral là một hệ thống phòng không tự hành của Mỹ được phát triển dựa trên tên lửa không đối không AIM-9 Sidewinder. Hệ thống sử dụng khung gầm dòng xe thiết giáp chở quân M113. MIM-72A/M48 được đưa vào trong trang bị của Lục quân Mỹ từ năm 1969 cho đến khi bị loại biên trong khoảng từ năm 1990 đến năm 1998. Hệ thống Tên lửa đất đối không MIM-72A/M48 Chaparral được sử dụng kết hợp với pháo phòng không tự hành M163 VADS, trong đó M163 VADS sẽ đảm nhận vai trò phòng thủ tầm gần còn Chaparral đảm nhiệm vai trò phòng thủ tầm xa. Phát triển. Mauler. Ngay từ năm 1959, Bộ chỉ huy tên lửa Hoa Kỳ (U.S. Army MICOM (Missile Command)) đã bắt đầu phát triển một hệ thống tên lửa phòng không tiền tuyến trong chương trình "Hệ thống phòng không phía trước-Forward Area Air Defense" (FAAD). Kết quả là hệ thống tên lửa phòng không MIM-46 Mauler, được phát triển dựa trên khung gầm xe M113 và trang bị một giá phóng gồm 9 tên lửa và bao gồm cả radar phát hiện và theo dõi tầm xa. Hệ thống này hoạt động gần như là tự động, với kíp điều khiển chỉ cần thao tác chọn mục tiêu trên màn hình hiển thị và sau đó nhấn nút "phóng" tên lửa. Toàn bộ quá trình giao chiến của hệ thống được thực hiện bởi máy tính điều khiển hỏa lực. Trong thử nghiệm, Mauler đã tỏ ra chưa sẵn sàng và còn nhiều lỗi. Đa số là lỗi nhỏ, bao gồm lỗi ở động cơ tên lửa hoặc ở cánh của tên lửa. Bên cạnh đó, các lỗi về hệ thống điều khiển hoản lực và dẫn đường là rất khó để giải quyết. Đáng lo ngại hơn, là việc Liên Xô đã triển khai ngày một nhiều máy bay cường kích thế hệ mới. Đây là những nguyên nhân trực tiếp khiến chương trình phát triển MIM-46 Mauler bị hủy bỏ năm 1963. IFAAD. MICOM được chỉ định nghiên cứu tính khả thi của việc phát triển tên lửa phòng không dựa trên AIM-9D Sidewinder. Do tên lửa Sidewinder được dẫn đường bằng đầu dò hồng ngoại nên nó sẽ không bị nhiễu bởi mặt đất như tên lửa Muler điều khiển bằng radar. Tuy nhiên, tên lửa sẽ cần một khoảng thời gian để "khóa mục tiêu", và các đầu dò hiện tại chỉ có thể khóa vào đuôi của máy bay. Báo cáo của MICOM khá lạc quan, bao gồm việc tuyên bố Sidewinder có khả năng triển khai nhanh chóng, mặc dù sẽ bị giới hạn về tính năng. Một cấu hình mới với tên gọi "Interim Forward Area Air Defense" (IFAAD) dựa trên tên lửa Sidewinder. Mối lo ngại chính là ở cự ly ngắn hơn, tên lửa sẽ không có đủ thời gian để khóa mục tiêu trước khi nó bay ra khỏi tầm bắn, do đó cần thiết phải có xe thiết giáp phòng không mang pháo M61 Vulcan để khai hỏa tầm gần. Cả hai hệ thống được ngắm bắn mục tiêu thủ công để tránh quá tải cho hệ thống điều khiển hỏa lực. Do không có đủ không gian lắp đặt hệ thống radar tìm kiếm nên người ta triển khai thêm xe chuyên chở radar sử dụng datalink. Các nghiên cứu kết thúc vào năm 1965 và chương trình Chaparral được khởi động. Tên lửa XMIM-72A đầu tiên được chuyển giao cho Lục quân Mỹ vào năm 1967. Ford chịu trách nhiệm phát triển phương tiện bọc thép M730, dựa trên M548. Tiểu đoàn Chaparral đầu tiên được triển khai vào tháng Năm năm 1969. Một radar theo dõi mục tiêu cỡ nhỏ AN/MPQ-49 Forward Area Alerting Radar (FAAR), được phát triển vào năm 1966 để hỗ trợ cho hệ thống Chaparral/Vulcan, dù cho FAAR được vận chuyển bởi Gama Goat và không phù hợp để sử dụng trên tiền tuyến. Mô tả. Hệ thống phòng không hoàn chỉnh được biết đến với tên gọi chính là M48 Chaparral Intercept-Aerial Guided Missile System, Bao gồm bệ phóng tên lửa M54 đặt trên xe M730. Bệ phóng tên lửa có khả năng quay 360 độ và có góc chúc ngẩng +90/-9 độ. Bốn tên lửa được đặt sẵn trên ray phóng với tám tên lửa sẵn sàng bên dưới tháp pháo với cánh bị tháo rời. Pháo thủ ngồi vị trí giữa hai cụm tên lửa, ngắm mục tiêu bằng kính phản xạ. Hệ thống có một nguồn điện phụ để cung cấp năng lượng chạy cụm tên lửa và bộ phận cấp khí siêu lạnh sẽ đảm bảo làm lạnh đầu dò của tên lửa, Năm 1984, đơn vị FLIR được bổ sung cho hệ thống giúp hệ thống có khả năng tác chiến trong mọi điều kiện thời tiết ngày/đêm. Tên lửa MIM-72A dựa trên tên lửa AIM-9D Sidewinder. Điểm khác biệt chủ yếu là để giảm lực cản, tên lửa chỉ có hai cánh trên MIM-72A có cánh tà, hai cánh còn lại được gắn cố định. Động cơ trên MIM-72 là động cơ nhiên liệu rắn MK 50 về cơ bản giống hệt với động cơ MK 36 MOD 5 sử dụng trên AIM-9D Sidewinder. MIM-72B là phiên bản huấn luyện. Năm 1974, Lục quân Mỹ trang bị phiên bản MIM-72C, sử dụng đầu dò nâng cấp AN/DAW-1B với khả năng tấn công mục tiêu bay từ cả phía trước (all-aspect) thay vì chỉ có thể khóa vào đuôi máy bay như phiên bản cũ, cũng như ngòi nổ radar doppler và đầu đạn văng mảnh M250. Cả ngòi nổ và đầu đạn được phát triển cho chương trình tên lửa phòng không Mauler. Phiên bản C được triển khai vào năm 1976 đến năm 1981 và đạt trạng thái sẵn sàng chiến đấu vào năm 1978. Phiên bản dành cho Hải quân cũng được phát triển dựa trên MIM-72C – với tên gọi RIM-72C "Sea Chaparral". Hệ thống này không được Hải quân Mỹ trang bị nhưng nó đã được xuất khẩu cho Đài Loan. MIM-72D được chế tạo để xuất khẩu, có đầu dò giống phiên bản A nhưng đầu đạn đã được cải tiến. MIM-72E là phiên bản đạn sử dụng động cơ M121 không khói, giảm đáng kể khói khi bắn tên lửa, giúp dễ dàng theo dõi phát bắn và làm kẻ địch khó phát hiện ra bệ phóng tên lửa. MIM-72F phiên bản xuất khẩu với động cơ Mk 50 và đầu dò AN/DAW-1 cũ. MIM-72G là phiên bản cuối cùng. Đạn tên lửa trang bị đầu dò AN/DAW-2 có trường nhìn rộng, cũng như khả năng phân biệt mục tiêu với hầu hết các biện pháp phóng mồi bẫy như pháo sáng. Tất cả các tên lửa cũ đều được nâng cấp lên phiên bản G cuối những năm 1980s và phiên bản G cũng được sản xuất mới từ năm 1990 đến 1991. Sau khi loại biên hệ thống được chuyển giao cho Vệ binh quốc gia Mỹ sử dụng. Ngoài ra còn có tên lửa huấn luyện như Trainer M30 và Trainer M33.
19,822,636
912316
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822636
Tỉnh tự trị Xã hội chủ nghĩa Kosovo
Tỉnh tự trị Xã hội chủ nghĩa Kosovo, được gọi đơn giản là Kosovo, là một trong hai tỉnh tự trị của Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Serbia thuộc Nam Tư (tỉnh còn lại là Vojvodina), từ năm 1945 đến 1990, đến khi được đổi tên thành tỉnh tự trị Kosovo và Metohija. Từ năm 1945 đến năm 1963, khu vực được đặt tên chính thức là Khu tự trị Kosovo và Metohija, với mức độ tự quản thấp hơn tỉnh tự trị Vojvodina. Năm 1963, Kosovo được trao quyền tự trị ngang bằng với Vojvodina, và theo đó tên chính thức được đổi thành "tỉnh tự trị Kosovo và Metohija". Năm 1968, thuật ngữ "Metohija" bị loại bỏ, và từ "xã hội chủ nghĩa" được đưa vào, đổi tên chính thức của tỉnh thành "tỉnh tự trị Xã hội chủ nghĩa Kosovo". Năm 1974, cả hai tỉnh tự trị (Vojvodina và Kosovo) đều được trao mức độ quyền tự trị tăng lên đáng kể. Năm 1989, dưới thời chủ tịch của Slobodan Milošević, mức độ tự chủ này bị giảm bớt. Năm 1990, thuật ngữ "Metohija" được đưa lại vào tên tỉnh, còn "xã hội chủ nghĩa" bị loại bỏ. Kể từ thời điểm đó, tên chính thức của tỉnh một lần nữa là "tỉnh tự trị Kosovo và Metohija", như từ năm 1963 đến 1968. Bối cảnh. Cho đến năm 1912, khu vực Kosovo nằm dưới quyền cai trị của Ottoman. Sau Chiến tranh Balkan lần thứ nhất, khu vực được sáp nhập vào Vương quốc Serbia theo Hiệp ước London. Vào thời điểm Serbia sáp nhập Kosovo (1912–1913), hiến pháp 1903 vẫn còn hiệu lực. Hiến pháp này yêu cầu một Đại hội Quốc dân trước khi biên giới của Serbia có thể được mở rộng để bao gồm cả Kosovo; nhưng không có Đại hội Quốc dân như vậy từng được tổ chức. Về mặt hiến pháp, lẽ ra Kosovo sẽ không trở thành một phần của Vương quốc Serbia. Ban đầu khu vực được cai trị bằng sắc lệnh. Các đảng phái chính trị của Serbia và quân đội không thể thống nhất về cách cai trị các vùng lãnh thổ mới chinh phục; cuối cùng điều này được giải quyết bằng một sắc lệnh hoàng gia. Năm 1918, khu vực Kosovo cùng phần còn lại của Serbia, trở thành một phần của Vương quốc của người Serb, người Croat và người Sloven (từ năm 1929 được đổi tên thành "Vương quốc Nam Tư"). Trong thời kỳ giữa hai thế chiến (1918-1941), tình trạng hiến pháp của khu vực Kosovo trong Nam Tư vẫn chưa được giải quyết. Năm 1941, Vương quốc Nam Tư bị Đức Quốc xã và các đồng minh tấn công và chiếm đóng. Khu vực Kosovo bị chiếm đóng bởi người Đức (phần phía bắc), người Ý (phần trung tâm) và người Bulgaria (phần phía đông). Vùng chiếm đóng của Ý chính thức được sáp nhập vào Albania phát xít. Điều này đánh dấu khởi đầu cuộc đàn áp quần chúng người dân tộc Serb ở các vùng bị sáp nhập thuộc Metohija và miền trung Kosovo. Một nền cai trị khủng bố đã được thực thi bởi tổ chức dân tộc chủ nghĩa Albania Balli Kombëtar và bởi Sư đoàn SS "Skanderbeg", được Heinrich Himmler lập ra. Đến cuối năm 1944, dân số Serb trong khu vực đã giảm xuống. Năm 1944, Tito viết rằng khu vực "sẽ có được quyền tự trị rộng rãi hơn, và vấn đề đơn vị liên bang nào mà họ tham gia sẽ phụ thuộc vào chính người dân, thông qua các đại diện của họ" mặc dù trên thực tế, việc ra quyết định là tập trung và phi dân chủ. Có nhiều đề xuất khác nhau để sáp nhập Kosovo vào các khu vực khác (thậm chí với Albania) nhưng vào năm 1945, người ta quyết định sáp nhập Kosovo vào Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Serbia. Tuy nhiên, một phần của tỉnh (vilayet) Kosovo cũ được trao cho nước cộng hòa Macedonia mới (bao gồm cả thủ phủ cũ Skopje), trong khi một phần khác được chuyển cho Montenegro (chủ yếu là Pljevlja, Bijelo Polje và Rožaje), cũng là một thực thể mới. Vào tháng 7 năm 1945, "Hội đồng nhân dân khu vực" của Kosovo đã thông qua "Nghị quyết về việc sáp nhập Kosovo–Metohija vào Serbia liên bang". 1945–1963. Từ năm 1945 đến năm 1963, đây là Khu tự trị Kosovo và Metohija' ( / "Autonomna Kosovsko-Metohijska Oblast"), có mức độ tự chủ thấp hơn Vojvodina. Khu tự trị Kosovo và Metohija được thành lập vào ngày 3 tháng 9 năm 1945. Sau khi quan hệ với Cominform bị phá vỡ vào năm 1948, Nam Tư thắt chặt một số chính sách nhất định, bao gồm tập thể hóa chặt chẽ hơn. Điều này dẫn đến việc giảm sản lượng ngũ cốc nghiêm trọng tại Kosovo; đã xảy ra tình trạng thiếu lương thực trên khắp Nam Tư. Song song với điều này, chính phủ Albania bắt đầu chỉ trích sự cai trị của Nam Tư đối với Kosovo; chính phủ Nam Tư đáp trả bằng các cuộc đàn áp người dân địa phương, nhằm tìm kiếm "những kẻ phản bội" và "những kẻ theo cột trụ thứ năm", mặc dù nhóm ủng hộ ngầm Tirana sớm nhất không được thành lập cho đến đầu thập niên 1960. Vào giữa thập niên 1950, Hội đồng của Cộng hoà Nhân dân Serbia quyết định rằng khu Leposavić (187 km2) được nhượng lại cho Khu tự trị Kosovo và Metohija, theo yêu cầu của ban lãnh đạo Kosovo. Cho đến lúc đó, đây là một phần của "srez" Kraljevo, có dân cư hoàn toàn là người Serb. Sau đó, số lượng người Serb giảm mạnh (nhưng vẫn là đông nhất). Năm 1959, Leposavić được sáp nhập vào tỉnh. Sau rạn nứt Tito-Stalin vào năm 1948, quan hệ giữa Albania theo chủ nghĩa Stalin và Nam Tư cũng bị rạn nứt. Chính sách ngôn ngữ có tầm quan trọng tối đa ở Nam Tư cộng sản, do đây là quốc gia sau Thế chiến thứ hai được tổ chức lại thành liên minh các quốc gia được xác định theo ngôn ngữ dân tộc, tương tự chính sách dân tộc của Liên Xô giữa hai thế chiến. Tại Kosovo sau chiến tranh, tiếng Albania địa phương được đẩy xa với tiêu chuẩn tiếng Albania của nhóm phương ngữ Tosk, bằng cách dựa trên phương ngữ Kosovo của nhóm Gheg. Kết quả là, một ngôn ngữ Kosovo tiêu chuẩn được hình thành. Tuy nhiên, sau khi Albania và Nam Tư xích lại gần nhau vào đầu những năm 1970, Beograd áp dụng tiêu chuẩn tiếng Albania dựa trên nhóm Tosk của Albania, điều này đã chấm dứt thời kỳ hưng thịnh ngắn ngủi của ngôn ngữ Kosovo dựa trên nhóm Gheg. 1963–1968. Tỉnh tự trị Kosovo và Metohija ( / "Autonomna Pokrajina Kosovo i Metohija", ) là tên được sử dụng từ năm 1963 đến năm 1968, sau đó thuật ngữ "Metohija" bị loại bỏ, và từ "xã hội chủ nghĩa" được thêm vào. Kosovo chính thức trở thành một tỉnh tự trị vào năm 1963, sau cải cách hiến pháp, và vị thế của tỉnh được cân bằng với vị thế của Vojvodina. Căng thẳng giữa sắc dân Albania và chính phủ Nam Tư và Serbia ở mức đáng kể, không chỉ do căng thẳng dân tộc mà còn do những lo ngại về ý thức hệ chính trị, đặc biệt là liên quan đến quan hệ với nước láng giềng Albania. Các biện pháp đàn áp khắc nghiệt được áp dụng đối với người Albania tại Kosovo do nghi ngờ rằng họ có cảm tình với các chính sách Stalinist của Enver Hoxha tại Albania. Năm 1956, một phiên tòa chiếu lệ tại Priština được tổ chức, trong đó nhiều người cộng sản thuộc dân tộc Albania ở Kosovo bị kết tội là những kẻ xâm nhập từ Albania và bị kết án tù dài hạn. Quan chức cộng sản cấp cao người Serbia Aleksandar Ranković tìm cách đảm bảo vị thế của người Serb tại Kosovo và trao cho họ quyền thống trị trong giới cán bộ của Kosovo. Hồi giáo tại Kosovo vào thời điểm này bị đàn áp và cả người Albania và người Slav Hồi giáo đều được khuyến khích tự nhận mình là người Thổ Nhĩ Kỳ và di cư sang Thổ Nhĩ Kỳ. Đồng thời người Serb và người Montenegro thống trị chính phủ, lực lượng an ninh và việc làm công nghiệp tại Kosovo. Người Albania phẫn nộ trước những tình trạng này và phản đối chúng vào cuối những năm 1960, cáo buộc các hành động của chính quyền tại Kosovo là thực dân, cũng như yêu cầu Kosovo trở thành một nước cộng hòa, hoặc tuyên bố ủng hộ Albania. 1968–1990. Tỉnh tự trị Xã hội chủ nghĩa Kosovo ( / "Socijalistička Autonomna Pokrajina Kosovo", ) là tên được sử dụng từ năm 1968, khi tiền tố "Xã hội chủ nghĩa" được thêm vào, và thuật ngữ "Metohija" bị loại bỏ. Tên "Tỉnh tự trị Xã hội chủ nghĩa Kosovo" được chính thức sử dụng cho đến năm 1990, khi thuật ngữ "Metohija" được đưa trở lại vào tên chính thức, và tiền tố "xã hội chủ nghĩa" bị loại bỏ. Xây dựng quyền tự chủ đáng kể: 1968–1974. Quyền tự trị của Kosovo được củng cố đáng kể vào năm 1968, do những thay đổi chính trị lớn tại Nam Tư. Sau khi Ranković bị lật đổ vào năm 1966, chương trình nghị sự của các nhà cải cách ủng hộ phân quyền tại Nam Tư, đặc biệt là từ Slovenia và Croatia, đã thành công vào năm 1968 trong việc đạt được sự phân quyền đáng kể theo hiến pháp, tạo ra quyền tự trị đáng kể ở cả Kosovo và Vojvodina, và công nhận một dân tộc Hồi giáo Nam Tư. Do những cải cách này, đã có một cuộc đại tu lớn về giới cán bộ và cảnh sát của Kosovo, chuyển từ do người Serb thống trị sang do người Albania thống trị thông qua việc sa thải người Serb trên quy mô lớn. Những nhượng bộ khác đã được thực hiện cho người dân tộc Albania ở Kosovo để đối phó với tình trạng bất ổn, bao gồm cả việc thành lập Đại học Pristina trong vai trò một tổ chức tiếng Albania. Những thay đổi này tạo ra nỗi sợ hãi lan rộng trong người Serb rằng họ đang trở thành công dân hạng hai tại Nam Tư do những thay đổi này. Đạt được quyền tự chủ đáng kể: 1974–1990. Tỉnh tự trị Xã hội chủ nghĩa Kosovo nhận được nhiều quyền tự trị hơn trong Serbia và Nam Tư theo cải cách hiến pháp vào năm 1974. Trong các hiến pháp mới của Nam Tư và Serbia, được thông qua trong cuộc cải cách năm 1974, Kosovo được trao quyền tự trị lớn, cho phép tỉnh không chỉ có chính quyền và hội đồng riêng mà còn có quyền tự chủ đáng kể về hiến pháp, lập pháp và tư pháp. Theo Hiến pháp của Nam Tư và Serbia, tỉnh tự trị XHCN Kosovo cũng có được Hiến pháp của riêng mình. Tỉnh Kosovo giành được các vị trí quan chức cấp cao nhất, đáng chú ý nhất là Ban chủ tịch và Chính phủ, và giành được một ghế trong Đoàn Chủ tịch Nam Tư Liên bang (bao gồm cả quyền phủ quyết ở cấp liên bang), tương đương với tình trạng của CHXHCN Serbia. Giai cấp thống trị địa phương do người Albania thống trị đã yêu cầu công nhận Kosovo là một nước cộng hòa song song với Serbia trong Liên bang, và sau cái chết của Josip Broz Tito vào năm 1980, các yêu cầu đã lại được đưa ra. Vào tháng 3 năm 1981, các sinh viên người Albania bắt đầu các cuộc biểu tình năm 1981 ở Kosovo, khi một cuộc biểu tình xã hội biến thành các cuộc bạo động quần chúng bạo lực với các yêu cầu dân tộc chủ nghĩa trên toàn tỉnh, và chính quyền Nam Tư ngăn chặn bằng vũ lực. Tình trạng những người phi Albania di cư tăng lên và căng thẳng sắc tộc giữa người Albania và những người phi Albania cũng tăng lên đáng kể, với các cuộc tấn công bạo lực, đặc biệt là nhằm vào các quan chức và đại diện chính quyền Nam Tư. Sự cố Đorđe Martinović năm 1985 và vụ thảm sát Paraćin năm 1987 góp phần tạo nên bầu không khí căng thẳng sắc tộc. Vào năm 1988 và 1989, chính quyền Serbia tham gia vào một loạt các động thái được gọi là cách mạng chống quan liêu, dẫn đến việc sa thải ban lãnh đạo tỉnh vào tháng 11 năm 1988 và giảm đáng kể quyền tự trị của Kosovo vào tháng 3 năm 1989. Vào ngày 28 tháng 6 năm 1989, Milošević dẫn đầu một lễ kỷ niệm lớn 600 năm Trận Kosovo năm 1389. Bài phát biểu Gazimestan của Milošević đánh dấu sự khởi đầu thời kỳ nổi lên về chính trị của ông, là một phần quan trọng của các sự kiện góp phần vào cuộc khủng hoảng diễn ra tại Kosovo. Phong trào chủ nghĩa dân tộc Serbia tiếp sau đó cũng là một yếu tố góp phần vào Chiến tranh Nam Tư. Tình trạng của Kosovo được trở lại như Tỉnh tự trị Kosovo và Metohija trước năm 1968 theo Hiến pháp Cộng hòa Serbia, được thông qua ngày 28 tháng 9 năm 1990. Sau Chiến tranh Kosovo là việc Kosovo nằm dưới Chính quyền của Liên hợp quốc vào năm 1999. Sau đó, vào tháng 2 năm 2008, Kosovo tuyên bố độc lập khỏi Serbia, trong khi Serbia tiếp tục tuyên bố đây là tỉnh tự trị Kosovo và Metohija. Nhân khẩu. Theo điều tra nhân khẩu năm 1981, dân số của tỉnh là 1.584.441 người, bao gồm: Chính trị. Đảng chính trị duy nhất trong tỉnh là Liên đoàn Những người cộng sản Kosovo, là một phần của Liên đoàn Những người cộng sản Serbia và một phần của Liên đoàn Những người cộng sản Nam Tư. Chủ tịch Hội đồng chấp hành của Ủy ban nhân dân tỉnh tự trị Xã hội chủ nghĩa Kosovo: Chủ tịch Hội đồng chấp hành của tỉnh tự trị Xã hội chủ nghĩa Kosovo: Chủ tịch Ủy ban giải phóng nhân dân tỉnh tự trị Xã hội chủ nghĩa Kosovo: Chủ tịch Hội đồng lập pháp của tỉnh tự trị Xã hội chủ nghĩa Kosovo: Chủ tịch của tỉnh tự trị Xã hội chủ nghĩa Kosovo:
19,822,650
42296
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822650
Mo Mường
Mo Mường là các nghi lễ dân gian có tính linh thiêng được sử dụng ở một số nghi lễ như cầu mạnh khỏe, mừng lúa mới và đặc biệt là tang lễ của người Mường. Mục đích của Mo Mường nhằm giải quyết các thủ tục, nghi lễ có tính chất trấn an tinh thần, cầu mạnh khỏe cho con người. Mo Mường còn được coi là một loại nghề nghiệp, một loại hình di sản văn hóa có tính nguyên hợp, là hoạt động tín ngưỡng, văn hóa dân gian chỉ thực hiện trong tang lễ và một số nghi lễ tín ngưỡng, nghi lễ vòng đời của người Mường. Mục đích nhằm cầu mạnh khỏe, trấn an con người trước các biến động lớn khi đau ốm, chết người và thực hiện các nghi lễ trong tang lễ trước khi đưa người chết đi mai táng. Hiện mo Mường đã được lập hồ sơ để trình UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới vào năm 2024-2025. Mo Mường bao gồm 3 lĩnh vực chính cấu thành: Lời Mo, môi trường diễn xướng và con người thực hành diễn xướng mo, tức là nghệ nhân mo. Trong đó, lời mo gắn liền với nghệ nhân mo chiếm vị trí quan trọng nhất. Mo Mường phân bố ở 7 tỉnh thành có người Mường sinh sống tại Việt Nam là: Hòa Bình, Ninh Bình, Sơn La, Phú Thọ, Hà Nội, Thanh Hóa, Đắk Lắk.
19,822,656
11
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822656
Xả súng Auckland 2023
Vào sáng ngày 20 tháng 7 năm 2023, một vụ xả súng hàng loạt đã xảy ra tại một công trường xây dựng ở khu thương mại trung tâm của Auckland. Tay súng được xác định là Matu Tangi Matua Reid, 24 tuổi, đã giết chết hai đồng nghiệp bằng một khẩu súng ngắn, làm bị thương bảy người khác, trong đó có một sĩ quan cảnh sát, rồi tự sát. Một vụ xả súng gây chết người riêng biệt, không liên quan cũng xảy ra trên cùng một con phố ở Auckland CBD vào ngày 3 tháng 8 năm 2023. Vụ xả súng. Matu Tangi Matua Reid bước vào tòa nhà Số 1 đường Queen Street ở Khu thương mại trung tâm Auckland (Auckland CBD) với một khẩu súng ngắn nạp đạn kiểu bơm vào ngày 20 tháng 7 năm 2023. Tòa nhà 21 tầng gần Trung tâm thương mại Commercial Bay, vốn mở cửa lần đầu vào năm 1973 và đang được cải tạo như một phần của dự án tái phát triển Commercial Bay, với kế hoạch xây dựng văn phòng và khách sạn. Reid đã từng làm việc tại công trường xây dựng, và vụ nổ súng được cho là có liên quan đến công việc của anh ta ở đó. Reid di chuyển qua tòa nhà và nổ súng vào khoảng 7:20 sáng (NZST), giết chết hai công nhân xây dựng là đồng nghiệp của anh ta. Nhiều người khác bị thương. Cảnh sát đến lúc 7:34sáng, với Biệt đội chống Tội phạm có vũ trang (AOS) đến bốn phút sau đó. Các cảnh sát tiến vào tòa nhà trong khi Reid đang nổ súng và đã tìm thấy anh ta ở các tầng trên của tòa nhà, nơi anh ta cố thủ trong một trục thang máy. Reid đã bắn cảnh sát, trúng một sĩ quan, trước khi cảnh sát bắn trả. Reid sau đó được tìm thấy đã chết vì tự trúng đạn của mình. Đây là vụ xả súng hàng loạt đầu tiên ở New Zealand kể từ Vụ xả súng tại nhà thờ Hồi giáo Christchurch năm 2019. Thủ phạm. Reid đã từng nhận bản án tại cộng đồng vì gây ra một vụ hành hung vào năm 2020. Anh ta còn phạm thêm tội trong một vụ bạo lực gia đình vào năm 2021, khi đang chấp hành bản án trước đó. Vì vậy, anh ta đã bị kết án 5 tháng quản thúc tại gia vào tháng 3 năm 2023, vì các tội chặn thở (siết cổ), cố ý gây thương tích và "nam hành hung nữ". Anh ta đã trải qua 5 tháng bị giam giữ trong lúc chờ tuyên án và thời gian giam giữ tại gia của anh ta theo đó đã được giảm bớt so với thời gian lẽ ra phải có. Reid được phép rời khỏi nhà để đi làm trong thời gian bị giam giữ. Anh ta không có giấy phép sử dụng súng. Phản ứng. Ứng phó khẩn cấp. Khu vực ngay xung quanh ngã tư các đường Queen Street / Quay Street đã bị phong tỏa. Vụ xả súng thu hút sự chú ý do bình thường New Zealand không xảy ra vụ nổ súng nào. Thủ tướng New Zealand Chris Hipkins đã đưa ra một thông cáo báo chí, nói rằng không có rủi ro an ninh quốc gia và sẽ không có thay đổi nào về mức độ đe dọa khủng bố của quốc gia. Auckland Transport, công ty vận hành bến phà, xe lửa và xe buýt gần vị trí xảy ra vụ việc, ban đầu không đóng dịch vụ phà mà chỉ chuyển hướng xe buýt ra khỏi ga Ga Britomart gần đó. Cuối ngày, họ thông báo rằng họ sẽ tiến hành xem xét phản ứng của mình để đảm bảo an toàn cho hành khách, đặc biệt là trong trường hợp của bến phà. Ngày 21 tháng 7, giám đốc điều hành Dịch vụ Xe cứu thương Khẩn cấp Hato Hone St John, Stuart Cockburn, xác nhận rằng lực lượng ứng cứu khẩn cấp đã điều trị cho 10 người, 7 người trong số họ bị thương do đạn bắn. Một trong những người bị thương là một sĩ quan cảnh sát, là người đã bị thương "đáng kể". Điều tra. Ngày 20 tháng 7, Hipkins xác nhận rằng Cảnh sát New Zealand sẽ mở một cuộc điều tra đầy đủ về vụ xả súng, bao gồm cả cách thủ phạm Reid lấy được khẩu súng và liệu có bất kỳ vấn đề nào được báo trước hay không. Cùng ngày, Cục Cải chính ("Department of Corrections") đã mở một cuộc điều tra về việc quản lý quá trình quản thúc Reid tại nhà. Đến ngày 23 tháng 7, lực lượng chức năng đã trục vớt được thi thể của hai nạn nhân. Họ được xác định là Solomona Toʻotoʻo và Tupuga Sipiliano. Giải vô địch bóng đá nữ thế giới 2023. Vụ xả súng xảy ra vào ngày khai mạc và trận đấu đầu tiên của Giải vô địch bóng đá nữ thế giới 2023 đang diễn ra tại Auckland. Đây là giải đấu do Úc và New Zealand đồng tổ chức. Theo kế hoạch, lễ khai mạc và trận đấu giữa New Zealand và Na Uy sẽ diễn ra vào tối ngày 20 tháng 7 tại Eden Park. Địa điểm tổ chức đã được tăng cường an ninh như một biện pháp "trấn an". Trong bài phát biểu đầu tiên của mình về vụ án, Hipkins thừa nhận rằng "rõ ràng việc FIFA World Cup bắt đầu vào tối nay sẽ có rất nhiều con mắt đổ dồn về Auckland", cho biết chính phủ New Zealand đã nói chuyện với FIFA và World Cup sẽ diễn ra như kế hoạch. Một đại diện của Liên đoàn bóng đá Úc nói rằng vụ nổ súng không liên quan đến World Cup. Vụ việc diễn ra bên ngoài Khách sạn M, là nơi ở của đội tuyển Na Uy trước trận đấu, và gần khu vực dành cho người hâm mộ. Đội trưởng Na Uy Maren Mjelde nói rằng dù các thành viên của đội bị trực thăng cảnh sát đánh thức, họ "luôn cảm thấy an toàn". Các cầu thủ khác đang ăn sáng ở tầng trệt và bị lực lượng an ninh giữ bên trong khi lệnh phong tỏa được áp dụng. Người phát ngôn của đội nói rằng quá trình chuẩn bị cho trận đấu của Na Uy không bị ảnh hưởng. Đội tuyển Ý, đang ở trong một khách sạn gần đó, không thể rời đi để tham gia buổi tập do cảnh sát bao vây. Các đội tuyển quốc gia khác ở Auckland không bị ảnh hưởng. Lễ hội Người hâm mộ FIFA ("FIFA Fan Festival") đã được lên kế hoạch khai mạc vào ngày 20 tháng 7 tại The Cloud của Auckland CBD, nhưng đã đã phải chuyển sang khai mạc vào trưa ngày 21 tháng 7. Những phút mặc niệm được cử hành trong lễ khai mạc (một ở Auckland và một ở Sydney, Úc) và trước các trận khai mạc để tưởng nhớ các nạn nhân của vụ xả súng.
19,822,657
685009
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822657
Tiếng Tráng Tả Giang
Tiếng Tráng Tả Giang ( ) là một nhóm phương ngữ thuộc nhóm tiếng Tráng được nói dọc theo sông Tả Giang, bao gồm các huyện Tiandeng, Daxin, Chongzuo, Ningming, Longzhou và Pingxiang ở Quảng Tây, một số làng ở Phú Ninh, Vân Nam và ở Lạng Sơn, Việt Nam. Đây là một ngôn ngữ giả định của nhóm ngôn ngữ Thái tại Trung Quốc và Việt Nam. Phân loại. Vào những năm 1950, Tráng Tả Giang được công nhận là một phương ngữ hoặc ngôn ngữ nói tại Quảng Tây, Trung Quốc. Năm 2007, ISO 639-3 cũng thêm người nói ngôn ngữ này tại Việt Nam khi sông Tả Giang đi đến đây. Phân loại của Phittiyaporn (2009) cho thấy tiếng Tráng Tả Giang không phải là một nhánh đơn nguyên, mà là một phần của hai nhánh chính của ngữ chi Thái (các nhánh B, F và H).
19,822,663
912316
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822663
Gia tộc Cavendish
Gia tộc Cavendish (hoặc de Cavendish) ( ; tiếng Anh: "Cavendish family") là một gia đình quý tộc Anh, có nguồn gốc Anglo-Norman (mặc dù có tên Anglo-Saxon, có nguồn gốc từ một địa danh ở Suffolk). Họ đã trở nên nổi tiếng với tư cách là Công tước xứ Devonshire và Công tước xứ Newcastle. Các chi nhánh hàng đầu của gia tộc đã nắm giữ các chức vụ cao trong chính trường Anh, đặc biệt là kể từ Cách mạng Vinh quang năm 1688, và sự tham gia của William Cavendish (lúc đó là Bá tước xứ Devonshire) trong "Lời mời William" ("Invitation to William"), mặc dù gia tộc này dường như đã bắt đầu khởi tạo trên đất Anh kể từ Cuộc xâm lược Anh của người Norman, với Cavendish được sử dụng (dưới hình thức này hay hình thức khác) như một họ từ đầu thế kỷ XIII. Là một họ có nguồn gốc từ địa danh, nó được ghi nhận lần đầu vào năm 1086.
19,822,664
70602531
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822664
.fun
.fun là một tên miền cấp cao nhất dùng chung (gTLD) của hệ thống phân giải tên miền được sử dụng trên Internet. Tên miền bắt nguồn từ một từ tiếng Anh fun. Lịch sử. Tên miền .fun được đăng ký vào tháng 12 năm 2016. Miền này hiện thuộc sở hữu của Radix, một công ty sở hữu một số miền cấp cao chung khác. Theo Radix, nhóm mục tiêu của tên miền cấp cao nhất là dành cho cá nhân hoặc tổ chức muốn đối tượng được giải trí.
19,822,672
536098
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822672
Máy mài
Máy mài cầm tay là dụng cụ chuyên dùng để giũa các rãnh, bề mặt không bằng phẳng hay các đường viền trên bề mặt kim loại. Đa số các thợ mài cũng sử dụng thiết bị này để đánh bóng và hoàn thiện bề mặt của các phần đã hoàn thành. Thông thường, máy mài sẽ được trang bị một đá mài có dạng hình tròn với đa dạng kích thước khác nhau. Ngoài bào mòn bề mặt, làm phẳng bề mặt, trong nhiều trường hợp nó còn được dùng để mài dao. Máy mài được sử dụng để gia công tinh các phôi yêu cầu chất lượng bề mặt cao (ví dụ: độ nhám bề mặt thấp) và độ chính xác cao về hình dạng và kích thước. Vì độ chính xác về kích thước trong quá trình mài là 0,000025 mm nên trong hầu hết các ứng dụng, nó có xu hướng là nguyên công hoàn thiện và loại bỏ tương đối ít kim loại, độ sâu khoảng 0,25 đến 0,5 mm. Cấu tạo. Đa số, máy mài sẽ có cấu tạo cơ bản gồm 11 bộ phận như sau: Các loại máy mài thông dụng. Hiện nay có rất nhiều loại máy mài khác nhau, phổ biến nhất là các dòng dưới đây:
19,822,675
807300
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822675
Vũ Tất Thận
Vũ Tất Thận có tên húy là Thiết Trấn, tự là Như Tông, thụy là Trung Hậu được mang quốc tính theo họ của chúa Trịnh nên còn được gọi là Trịnh Thiết, là quan nhà Lê trung hưng. Thân thế và sự nghiệp. Vũ Tất Thận sinh ngày 25 tháng 9 năm Đinh Hợi (1705); mất ngày 28 tháng 9 năm Bính Tuất (1766); quê tại My Thử, Đường An, Hải Dương, là em trai của Thái phi Vũ Thị (vợ chúa Trịnh Cương), là bậc võ quan, trực tiếp cầm quân và tham gia nhiều trận chiến thời đó đượcTrịnh Doanh tin tưởng, được phong là "Suy trung Dực vận công thần, Đồng Tham tụng Trung doanh khuôn quân doanh Đô đốc phủ, Chánh Đô đốc Thự phủ sự, kiêm Tôn nhân Phủ, Hữu Tôn chính Đại tư đồ Bính trung công" Giúp Trịnh Doanh lên ngôi chúa. Trịnh Giang lên ngôi chúa vào năm 1729 nhưng thích chơi bời, trễ nải công việc, không quan tâm đến triều chính, ban hành nhiều chính sách hà khắc nên đất nước rơi vào cảnh lầm than, nhân dân nhiều nơi nổi dậy khởi nghĩa. Nhân cơ hội này, tháng 12 năm 1738, Lê Duy Mật, Lê Duy Quy (con vua Lê Dụ Tông) và Lê Duy Chúc (con của vua Lê Hy Tông) đã định đốt kinh thành, làm binh biến, lật đổ nhà Trịnh nhưng việc bại lộ, đành phải trốn khỏi kinh thành vào Thanh Hóa dấy quân chống lại chúa Trịnh. Trước bối cảnh đó, Vũ Thái phi (mẹ của Trịnh Giang) đã bàn với các đại thần, trong đó có Vũ Tất Thận tìm cách đưa Trịnh Doanh lên ngôi vào tháng Giêng năm 1740. Sau khi lên ngôi, Trịnh Doanh đã điều chỉnh ngay các chính sách hà khắc thời Trịnh Giang, ban hành nhiều chính sách phù hợp với lòng dân và ban thưởng cho những đại thần có công phò giúp việc lên ngôi chúa. Vũ Tất Thận được ban chữ hiệu "công thần", mũ và đai lưng được trang sức bằng vàng cao quý như đối với bậc vương thân và thăng làm Đại tư đồ (lúc đó Vũ Tất Thận nắm giữ quân dinh Trung Khuông, kiêm Tôn nhân phủ hữu tôn chính, Thự phụ sự, Tả đô đốc).Đồng thời Vũ Tất Thận và chín đại thần khác (Nguyễn Quý Cảnh, Nguyễn Đình Hoàn, Giáp Nguyễn Khoa, Vũ Đình Trác, Trương Khuông, Trịnh Trụ, Đinh Văn Giai và Nguyễn Công Thái) còn được Trịnh Doanh phong thêm thái ấp nhờ công lao này. Giúp Trịnh Doanh lập vua Lê Hiển Tông. Thời Lê trung hưng, nhà Lê chỉ là vị thế, có tính hình thức, toàn bộ việc triều chính và điều hành đất nước do Phủ chúa thực hiện, ngay cả việc lập vua, hoàng hậu và thái tử đều có sự tham gia, thậm chí là sắp đặt của của chúa Trịnh. Tháng 4, năm 1735, vua Lê Thuần Tông mất. Theo lệ, Duy Diêu là con trưởng của vua Thuần Tông sẽ được nối ngôi. Tuy nhiên, Trịnh Giang lại lập Duy Thận, là em của vua Thuần Tông lên ngôi, vì Trịnh Giang cho rằng Duy Thận giống tiên đế và còn là cháu ngoại của bà Thái phi Vũ Thị, gần gũi, thân cận với Trịnh Giang; đổi niên hiệu là Vĩnh Hựu. Sau này, vào năm 1738, do Lê Duy Mật (là chú ruột của Duy Diêu) có ý định làm phản, nên Duy Diêu còn bị Trịnh Giang giam cầm. Tuy nhiên, lúc đó, Trịnh Doanh đã bí mật đưa Duy Diêu đến ở nhà của Vũ Tất Thận (là cậu của Trịnh Doanh). Trước ngày Duy Diêu đến, Vũ Tất Thận nằm mơ thấy có người khách đến nhà mình mà cờ quạt, âm nhạc hệt như nghi thức của thiên tử. Sau đó thì trùng lặp Duy Diêu đến ở nhà Vũ Tất Thận. Sau này, khi Trịnh Doanh lên ngôi chúa, Vũ Tất Thận bèn thuật lại cho Trịnh Doanh về giấc mơ của mình, có ý tôn lập Duy Diêu làm vua cho phải lẽ, hợp với lòng trăm họ. Nhờ đó, Trịnh Doanh mới bàn với các đại thần, xin nhà vua (Lê Ý Tông) nhường ngôi cho Duy Diêu. Vua Lê Ý Tông chấp thuận ban chiếu nhường ngôi. Duy Diêu lên ngôi lấy niên hiệu là Cảnh Hưng. Làm tướng ra trận. Sau khi lên ngôi chúa, ngoài việc ban hành, điều chỉnh các chính sách phát triển đất nước, Trịnh Doanh tập trung vào việc trấn dẹp các cuộc khởi nghĩa nông dân, các cuộc nổi loạn của thân quan mất mãn do thời Trịnh Giang gây lên như khởi nghĩa của Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ và Nguyễn Diên; Nguyễn Trác Oánh; Lê Duy Mật... để nhằm nhanh chóng ổn định tình hình đất nước. Là bậc quan võ đầu triều của chúa Trịnh, Vũ Tất Thận cùng với các võ tướng khác của triều đình đã tham gia vào công cuộc bình định này của Trịnh Doanh. Tháng 6 năm 1740, Vũ Tất Thận và Hoàng Công Kỳ được lệnh của Trịnh Doanh cùng làm đại tướng đến Đường An để đánh dẹp Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cử. Tuy nhiên, khi mới kéo quân đến làng An Nhân, chưa đến Đường An, đại quân của Vũ Tất Thận và Hoàng Công Kỳ đã bị nghĩa quân của Nguyễn Tuyển, Nguyển Cừ tấn công bất ngờ, chống đỡ không nổi, thua trận, tháo chạy toán loạn. Thừa thắng, Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ cho quân kéo đến My Thử, Đường An, là quê của Vũ Tất Thận và Thái phi Vũ Thị Ngọc Nguyên (vợ Trịnh Cương), đốt trụi phủ đệ, từ đường tại đây. Tháng 10 năm 1740, Trịnh Doanh trực tiếp mang đại quân đánh Vũ Đình Dung ở Ngân Già; tháng 11 năm 1740 kéo quân đến đóng ở Vũ Điện, sau đến Hiến Doanh, chia các tướng (Đinh Văn Giai, Nguyễn Đình Hoàn, Vũ Tất Thận, Trương Khuông ...) thành từng bộ phận, hiệp đồng tác chiến. Trong trận này Vũ Đình Dung đại bại, giặc Ngân Già bị xóa sổ. Sau này, trong nhiều cuộc bình định của Trịnh Doanh, nhất là ở vùng Sơn Tây trong giai đoạn từ 1749 - 1751, Vũ Tất Thận đều tham gia và là một trong số những võ tướng thân cận của Trịnh Doanh. Được chúa Trịnh tin tưởng, yêu quý. Tháng Giêng năm 1724, Vũ Tất Thận đang là quan Chưởng phủ, được Trịnh Giang tin dùng, cùng với Tham tụng Nguyễn Quý Cảnh, giao thêm việc quản lý, điều hành, tổ chức hương binh ở các huyện gần kinh kỳ, đóng quân ở ngoài kinh thành, tổ chức luyện tập chiến đấu như binh sĩ để bảo vệ kinh thành, đề phòng việc bất trắc có thể xảy ra, khi quân triều đình đi chinh chiến ở xa. Vào năm Bính Thìn, Vĩnh Hựu năm thứ 2 (1736), Trịnh Giang đã ban cho Vũ Tất Thận là Thử phủ sự, cấp phó của Chưởng phủ sự(lúc này Vũ Tất Thận mới 31 tuổi). Sau khi lên ngôi, tháng 7 năm 1745, Trịnh Doanh gia phong Vũ Tất Thận là Đại tư đồ, cho đổi họ tên theo họ Trịnh. Sau lại phong chức Hữu tông chánh trong Tôn Nhân Phủ (là cơ quan nắm sự vụ của hoàng thất tôn tộc, coi việc sổ sách, xếp đặt tước lộc, giáo dục, mệnh lệnh; là cơ quan để đánh giá, xem xét năng lực của các con cháu trong tôn thất họ Trịnh ở các chi phái để đề bạt, bổ nhiệm vào các chức vụ. Chức này bao giờ cũng dùng người thân tộc. Tiếp đó, tháng 6 năm 1758, Vũ Tất Thận được phong là Đại tư đồ, Bính trung công. Trong tập thơ "Càn nguyên ngự chế thi tập" (tập thơ Nôm gồm 268 bài thơ), Trịnh Doanh đã có 3 bài thơ khen tặng Vũ Tất Thận (khi cử ông đi đánh trận, khi ông về nghỉ hưu...). Ngày 25 tháng 7 năm Khải Định thứ 9 (1924), Vua Khải Định đã có sắc phong cho Vũ Tất Thận là "Đoan túc dực bảo Trung hưng tôn Thần", ghi nhận công lao đóng góp của ông cho nhà Lê trung hưng Hiện nay Vũ Tất Thận được phối thờ tại Đền Bà Chúa Me thôn Phục Lễ, xã Vĩnh Hồng, Bình Giang, Hải Dương (được xếp hạng Di tích lịch sử cấp tỉnh năm 2019 theo Quyết định số 333/QĐ-UBND ngày 22/01/2019 của Ủy ban nhân dân tỉnh Hải Dương)
19,822,679
925152
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822679
Giải vô địch bóng rổ thế giới 2023
Giải vô địch bóng rổ thế giới 2023 (tiếng Anh: "2023 FIBA Basketball World Cup", tiếng Nhật: FIBAバスケットボールワールドカップ2023, tiếng Indonesia: "Piala Dunia Bola Basket FIBA 2023") là giải đấu thứ 19 của Giải vô địch bóng rổ thế giới dành cho các đội tuyển bóng rổ nam do Liên đoàn Bóng rổ Quốc tế tổ chức. Đây là giải đấu thứ hai có 32 đội tham dự và lần đầu tiên được đăng cai bởi 3 quốc gia – Philippines, Nhật Bản và Indonesia – bắt đầu từ ngày 25 tháng 8 và kết thúc vào ngày 10 tháng 9 năm 2023. Đây là lần đầu tiên giải đấu được đăng cai tại Indonesia, và là lần thứ hai với Philippines và Nhật Bản với lần đầu tiên đăng cai vào các giải đấu năm 1978 và năm 2006. Đây là một trong ba kỳ World Cup liên tiếp được đăng cai tại châu Á sau Trung Quốc tại giải đấu năm 2019 và tiếp theo là Qatar tại giải đấu năm 2027, và là giải đấu đầu tiên trong lịch sử có một đội chủ nhà không vượt qua vòng loại. Giải đấu được đánh dấu là vòng loại cho Thế vận hội Mùa hè 2024, với 2 đội xuất sắc nhất đến từ châu Mỹ và châu Âu, và đội tuyển xuất sắc nhất đến từ châu Âu, châu Á và châu Đại Dương, vượt qua vòng loại cùng với đội chủ nhà Pháp. Tây Ban Nha là nhà đương kim vô địch, sau khi đánh bại Argentina với tỷ số 95–75 tại trận chung kết của giải đấu năm 2019. Giải đấu đã phá kỷ lục về số lượng khán giả đến sân khi ở trận ra quân giữa trận đấu giữa Cộng hòa Dominica và Philippines đã có 38.115 khán giả đến sân, phá vỡ kỷ lục là 32.616 khán giả tại trận chung kết của giải đấu năm 1994 diễn ra trên đất Canada. Lựa chọn chủ nhà. Vào ngày 7 tháng 6 năm 2016, Liên đoàn Bóng rổ Quốc tế đã phê duyệt quy trình đấu thầu cho Giải vô địch bóng rổ thế giới 2023. Các cuộc đấu thầu của các liên đoàn thành viên cũng được Hội đồng Trung ương của FIBA chấp thuận bắt đầu từ giải đấu năm 2023 và không hạn chế đối với một liên đoàn đã đăng cai giải đấu trước đó để đấu thầu quyền đăng cai cho Giải vô địch bóng rổ thế giới. Vào ngày 1 tháng 6 năm 2017, FIBA đã lập danh sách các ứng cử viên cho việc đấu thầu để đăng cai giải đấu: Nga và Thổ Nhĩ Kỳ đã rút khỏi cuộc đấu thầu, chỉ còn lại 2 liên minh: Philippines–Nhật Bản–Indonesia và Argentina–Uruguay tham gia cuộc đua giành quyền đăng cai, đồng thời đánh dấu kỳ World Cup đầu tiên được tổ chức tại nhiều quốc gia. Kết quả bầu chọn. Vào ngày 9 tháng 12 năm 2017, sau khi liên minh Argentina–Uruguay rút khỏi cuộc đua đăng cai, FIBA quyết định Philippines–Nhật Bản–Indonesia đã thắng thầu và giành quyền đăng cai giải đấu sau khi FIBA trao quyền đăng cai thông qua một cuộc bỏ phiếu nhất trí. Các đội tuyển. Vòng loại. Với tư cách là hai đội chủ nhà của giải đấu, Philippines và Nhật Bản được đặc cách tham dự giải đấu khi họ được trao quyền đăng cai chung với Indonesia. Tuy nhiên, suất đăng cai vòng chung kết của Indonesia phải có điều kiện vì FIBA muốn đội tuyển quốc gia Indonesia có năng lực thi đấu vào năm 2021 nên bắt buộc Indonesia phải vượt qua vòng loại hoặc tiến vào top 8 đội mạnh nhất (tức là phải vào đến tứ kết) tại Giải vô địch bóng rổ châu Á 2022 (bị hoãn từ năm 2021 do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19). Indonesia tham dự Giải vô địch bóng rổ châu Á 2022 với tư cách là chủ nhà, và đã vượt qua vòng sơ loại với vị trí thứ ba (trong bảng đấu có Úc, Jordan và Ả Rập Xê Út), nhưng ở vòng play-off (tức vòng 12 đội), họ để thua Trung Quốc với tỷ số 58–108, do đó họ không vượt qua được vòng loại của giải đấu, tan giấc mộng lần đầu tiên ra mắt đấu trường thế giới của họ ngay trên sân nhà. Đây cũng là lần đầu tiên trong lịch sử các kỳ World Cup mà đội chủ nhà không vượt qua được vòng loại. 80 đội tuyển thuộc 4 khu vực của FIBA tham dự vòng loại của giải đấu sau khi đã vượt qua vòng loại của các giải đấu thuộc các cấp độ châu lục (Giải vô địch bóng rổ châu Phi 2021, Giải vô địch bóng rổ châu Mỹ 2022, Giải vô địch bóng rổ châu Á 2022, Giải vô địch bóng rổ châu Âu 2022. Đối với khu vực châu Âu và châu Mỹ, các đội không vượt qua vòng loại châu lục sẽ phải tham dự vòng sơ loại tại các khu vực nói trên. Đối với khu vực châu Á/châu Đại Dương và châu Phi, các đội tuyển tham dự Giải vô địch bóng rổ châu Phi và Giải vô địch bóng rổ châu Á sẽ tham dự vòng loại ở cả hai châu lục này. Trận đấu đầu tiên của vòng loại diễn ra vào ngày 25 tháng 11 năm 2021 tại Minsk (Belarus) giữa Belarus và Thổ Nhĩ Kỳ tại vòng loại khu vực châu Âu. Buổi lễ bốc thăm vòng loại sẽ diễn ra tại tòa nhà Patrick Baumann tại Mies, Thụy Sĩ vào ngày 31 tháng 8 năm 2021. Vòng loại thứ nhất của vòng loại các khu vực châu Phi, châu Mỹ và châu Á/châu Đại Dương sẽ có 16 đội, trong khi châu Âu có 32 đội tham dự. Các đội thi đấu ở nhóm A được chia thành các bảng đấu có 4 đội, thi đấu theo thể thức thể thức vòng tròn một lượt tính điểm, thi đấu trên sân nhà – sân khách. 3 đội đứng đầu mỗi bảng sẽ giành vé vào vòng loại thứ hai, các đội được chia thành 10 bảng, bao gồm 4 bảng đấu thuộc khu vực châu Âu và các khu vực châu Phi, châu Mỹ và châu Á/châu Đại Dương, mỗi khu vực 2 bảng đấu. Các đội vẫn sẽ giữ nguyên số điểm mình có được từ vòng 1 và sẽ gặp 3 đội tuyển còn lại ở trong các bảng đấu khác vẫn theo thể thức thi đấu trên sân nhà – sân khách. 30 đội tuyển xuất sắc nhất sẽ giành vé tham dự Giải vô địch bóng rổ thế giới 2023, cùng với 2 đội đồng chủ nhà Philippines và Nhật Bản. Danh sách 32 đội tuyển tham dự giải đấu được công bố vào ngày 27 tháng 2 năm 2023 sau khi hoàn thành giai đoạn thứ 6 của vòng loại. Các đội tuyển đã vượt qua vòng loại. Vào ngày 28 tháng 8 năm 2022, Phần Lan và Bờ Biển Ngà lần lượt trở thành đội tuyển đầu tiên của khu vực châu Âu và châu Phi, đồng thời trở thành hai đội tuyển đầu tiên trên thế giới giành vé tham dự giải đấu. Vài ngày sau, New Zealand và Liban trở thành hai đội tuyển đầu tiên ở khu vực châu Á ngoài Philippines và Nhật Bản giành vé tham dự giải đấu. Phần Lan đã có lần thứ hai tham dự giải đấu sau lần đầu tiên góp mặt tại giải đấu năm 2014 được tổ chức tại Tây Ban Nha. Vào ngày 10 tháng 11 năm 2023, Canada trở thành đội tuyển đầu tiên ở khu vực châu Mỹ giành vé tham dự giải đấu. Bên cạnh Phần Lan, Slovenia, Ai Cập và México trở lại World Cup kể từ giải đấu năm 2014 sau khi họ không vượt qua vòng loại giải đấu năm 2019 trên đất Trung Quốc. Liban trở lại World Cup kể từ giải đấu năm 2010 tại Thổ Nhĩ Kỳ, trong khi Gruzia, Latvia và Nam Sudan làm nên lịch sử khi có lần đầu tiên tham dự giải đấu. Cabo Verde cũng làm nên lịch sử khi có lần đầu tiên tham dự giải đấu, trở thành quốc gia có diện tích nhỏ nhất có đại diện tham dự giải đấu. Brasil và Hoa Kỳ trở thành hai đội tuyển không vắng mặt bất kỳ giải đấu nào kể từ lần đầu tiên giải đấu được tổ chức vào năm 1950. Vài ngày trước khi giai đoạn thứ hai của vòng loại diễn ra, tại vòng loại khu vực châu Á, Hàn Quốc đã rút lui khỏi giải đấu do có một số cầu thủ của họ, dự kiến sẽ tham dự vòng loại, có kết quả xét nghiệm dương tính với COVID-19. Hiệp hội Bóng rổ Hàn Quốc đã kháng cáo lên FIBA về việc rút khỏi vòng loại của họ, nhưng bị FIBA từ chối. Kết quả là Hàn Quốc không vượt qua vòng loại sau khi tham dự hai giải đấu liên tiếp vào các năm 2014 và 2019. Nga, một trong 32 đội tuyển đã tham dự giải đấu năm 2019 đã bị cấm tham dự các giải đấu do FIBA tổ chức, bao gồm World Cup và vòng loại, do ảnh hưởng của cuộc xâm lược của Nga vào Ukraina vào tháng 2 năm 2022. Belarus cũng bị cấm tham dự giải đấu, và tất cả các kết quả trước đó của họ ở vòng loại đều bị hủy bỏ. Sau khi giành ngôi á quân tại giải đấu năm 2019 tại Trung Quốc, 9 kỳ tham dự World Cup liên tiếp kể từ giải đấu năm 1986 tại Tây Ban Nha, nhà đương kim vô địch Giải vô địch bóng rổ châu Mỹ 2022 Argentina không vượt qua vòng loại sau khi đã để thua Cộng hòa Dominica với tỷ số 75–79 ngay trên sân nhà. Chủ nhà và á quân của giải đấu năm 2010, Thổ Nhĩ Kỳ đã có lần đầu tiên không vượt qua vòng loại kể từ giải đấu năm 1998. Bên cạnh Argentina và Thổ Nhĩ Kỳ, một số đội tuyển châu Phi khác, điển hình là nhà đương kim vô địch Giải vô địch bóng rổ châu Phi 2 lần liên tiếp Tunisia, Sénégal và Nigeria - đội tuyển số 1 châu Phi lúc đó, và cũng là đại diện châu Phi duy nhất tham dự Thế vận hội Mùa hè 2020, đều phải trở thành khán giả của giải đấu này. Ngoài ra, Cộng hòa Séc và Ba Lan là những đội tuyển đã tham dự giải đấu năm 2019 không vượt qua vòng loại giải đấu này. Các đội tuyển đã vượt qua vòng loại, được phân chia theo khu vực, với số được đặt trong dấu ngoặc đơn chính là vị trí hiện tại của họ trên bảng xếp hạng bóng rổ nam FIBA trước khi giải đấu diễn ra: Lễ bốc thăm. Buổi lễ bốc thăm diễn ra vào ngày 29 tháng 4 năm 2023 tại Đấu trường Araneta, Thành phố Quezon, Philippines, vào lúc 19 giờ 30 phút, theo Giờ Philippines. Đại sứ toàn cầu của giải đấu Luis Scola (người Argentina) và nhà vô địch NBA 2011 Dirk Nowitzki (người Đức) điều hành buổi lễ bốc thăm cùng với các đại sứ giải đấu của ba nước chủ nhà: Thành viên của Philippines tại giải đấu năm 2014 Lewis Alfred Vasquez Tenorio và Hoa hậu Hoàn vũ 2018 Catriona Gray (người Philippines), cựu thành viên của đội tuyển quốc gia Nhật Bản và chủ tịch Câu lạc bộ bóng rổ Levanga Hokkaido Takehiro Orimo (người Nhật Bản) và nam diễn viên Raffi Ahmad (người Indonesia). Ca sĩ và rapper Saweetie (người Hoa Kỳ) và 2 nghệ sĩ người Philippines Billy Cartwood và Sarah Geronimo là những người biểu diễn trong buổi lễ bốc thăm. Trong buổi lễ bốc thăm, 32 đội tuyển sẽ được chia vào 8 nhóm hạt giống dựa theo Bảng xếp hạng FIBA được công bố vào tháng 2 năm 2023. Philippines rơi vào nhóm hạt giống số 1 do là chủ nhà cho giai đoạn cuối cùng của giải đấu, cùng với 3 đội tuyển có thứ hạng cao nhất: Tây Ban Nha, Hoa Kỳ, Úc. 28 đội tuyển còn lại sẽ chia thành các nhóm hạt giống từ Nhóm 2 đến Nhóm 8 dựa theo bảng xếp hạng FIBA công bố vào tháng 2 năm 2023, với đội đồng chủ nhà Nhật Bản sẽ rơi vào nhóm hạt giống số 7. Hơn nữa, ba nước chủ nhà có quyền chọn mỗi đội tuyển thi đấu ở vòng bảng. Hoa Kỳ được lựa chon thi đấu tại Philippines, Slovenia thi đấu tại Nhật Bản, Canada tại Indonesia. FIBA trích dẫn cho việc "lý do thương mại" mà họ cho rằng không ảnh hưởng tới buổi lễ bốc thăm. Buổi lễ bốc thăm sẽ chia làm 2 cụm nhóm hạt giống, mỗi cụm 4 nhóm hạt giống. Các đội ở các nhóm hạt giống 1, 3, 5, 7 sẽ thi đấu tại các bảng A, C, E, G. Các đội ở các nhóm hạt giống 2, 4, 6, 8 sẽ thi đấu tại các bảng B, D, F, H. Các đội tuyển đến từ các liên đoàn châu Phi, châu Mỹ, châu Á và châu Đại Dương sẽ không được gặp nhau ở giai đoạn vòng bảng. Ngoài ra, các bảng đấu đều có ít nhất 1 đại diện châu Âu góp mặt, nhưng không vượt quá tối đa là 2 đại diện. Như vậy, có thể biết rằng Montenegro và México, Tây Ban Nha và Brasil sẽ nằm chung một bảng vì Hy Lạp, Đức và Ý sẽ không cùng bảng với Tây Ban Nha. Nhóm hạt giống. Các nhóm hạt giống đã được xác nhận vào ngày 21 tháng 4 năm 2023. Cầu thủ. Tại Giải vô địch bóng rổ thế giới 2023, mỗi đội công bố danh sách gồm 12 cầu thủ; mỗi đội có thể chọn một cầu thủ nhập tịch theo quy tắc của FIBA từ danh sách các đội. Địa điểm thi đấu. Giải đấu diễn ra tại 5 địa điểm thuộc 5 thành phố riêng biệt thuộc 3 quốc gia chủ nhà. Ba thành phố ở Khu vực Đại đô thị Manila đăng cai 4 bảng đấu ở giai đoạn vòng bảng, 2 bảng đấu ở vòng 2, và giai đoạn cuối cùng, bắt đầu từ trận tứ kết. Okinawa và Jakarta, mỗi thành phố đăng cai 2 bảng đấu ở giai đoạn vòng bảng và 1 bảng đấu ở vòng 2. Philippines đăng cai 4 bảng đấu gồm 16 đội, mỗi bảng 4 đội. Nhật Bản và Indonesia, mỗi quốc gia đăng cai 2 bảng đấu, gồm 8 đội, mỗi bảng 4 đội. Sự chuẩn bị của Philippines, Nhật Bản và Indonesia trước giải đấu. Lễ bàn giao. Trong khuôn khổ Giải vô địch bóng rổ thế giới 2019 tại Trung Quốc, 3 nước chủ nhà đã cử đoàn đại diện đến giám sát giải đấu. Đoàn cũng giám sát Đại hội của Liên đoàn Bóng rổ Quốc tế và buổi lễ khai mạc. Buổi lễ bàn giao diễn ra trong thời gian nghỉ giữa giờ ở trận chung kết giữa Argentina và Tây Ban Nha tại Nhà thi đấu Ngũ Khỏa Tùng, Bắc Kinh, Trung Quốc chính thức bàn giao quyền đăng cai giải đấu từ Trung Quốc sang ba nước chủ nhà – Philippines, Nhật Bản và Indonesia. Thành viên Ban Chấp hành Trung ương của FIBA, Manny Pangilinan (người Philippines), Mitsuya Yuko (người Nhật Bản) và Erick Thohir (người Indonesia) đã nhận được cờ FIBA từ Chủ tịch Hiệp hội Bóng rổ Trung Quốc Diêu Minh. Các vị quan chức khác cũng tham dự buổi lễ bàn giao lúc đó là Chủ tịch FIBA lúc bấy giờ, Horacio Muratore (người Argentina) và Đại sứ toàn cầu của Giải vô địch bóng rổ thế giới 2019 – cố danh thủ Kobe Bryant (người Hoa Kỳ). Ban điều hành Giải vô địch bóng rổ thế giới 2023. Trong buổi gặp mặt của Ban chấp hành FIBA vào ngày 31 tháng 1 năm 2020, Ủy ban Olympic quốc tế và thành viên Ban Chấp hành FIBA, Richard Carrión (người Puerto Rico) được bầu làm Chủ tịch Ban điều hành của giải đấu. Giám đốc điều hành của FIBA khu vực Châu Đại Dương David Crocker cũng được bầu làm Giám đốc điều hành của giải đấu. Cuộc họp đầu tiên của Ban điều hành được diễn ra vào tuần cuối cùng của tháng 5 năm 2020. Sự hỗ trợ của Chính phủ. Indonesia. Vào tháng 2 năm 2020, Bộ trưởng Bộ Thanh niên và Thể thao Indonesia Zainudin Amali đã tiết lộ kế hoạch xây dựng một nhà thi đấu mới ở Jakarta để phục vụ cho giải đấu, với sức chứa từ 15.000 đến 20.000 chỗ ngồi. Tổng thống Indonesia Joko Widodo đã cấp giấy phép xây dựng, với việc Chính phủ Indonesia tài trợ cho việc xây dựng nhà thi đấu mới để Indonesia đăng cai giải đấu. Đó chính là Nhà thi đấu Indonesia, nằm trong Khu liên hợp thể thao Gelora Bung Karno. Joko Widodo cũng chủ trì buổi lễ cất nóc Nhà thi đấu Indonesia vào ngày 13 tháng 1 năm 2023, dự kiến sẽ mở cửa đón khán giả vào tháng 6 năm 2023, 2 tháng trước khi giải đấu diễn ra. Tổng thống Widodo và quyền Thống đốc Jakarta Hedu Budi Hartono chính thức cắt băng khánh thành Nhà thi đấu Indonesia vào ngày 7 tháng 8 năm 2023. Quỹ ngân sách 135 tỷ rupiah Indonesia được Chính phủ Indonesia cung cấp, thông qua Bộ Thanh niên và Thể thao Indonesia, cho Hiệp hội bóng rổ Indonesia và Ban Tổ chức giải đấu để Indonesia đăng cai giải đấu. Nhật Bản. Vào ngày 25 tháng 8 năm 2020, 3 năm trước khi giải đấu diễn ra, các quan chức Thành phố Okinawa đã tổ chức một buổi hội nghị chuyên đề về việc xây dựng một hệ thống có thể được chấp thuận cho quá trình chuẩn bị giải đấu. Ban tổ chức đăng cai giải đấu của thành phố được thành lập trong cùng sự kiện. Tham dự buổi lễ thành phố có Thị trưởng Thành phố Okinawa Sachio Kuwae, Chủ tịch Phòng Thương mại Thành phố Okinawa Toshiyuki Miyazato và Chủ tịch Câu lạc bộ bóng rổ Ryukyu Golden Kings Tatsuro Kimura. Philippines. Tổng thống Philippines Bongbong Marcos đã ký sắc lệnh hành chính vào ngày 27 tháng 3 năm 2023, quyết định thành lập một lực lượng đặc nhiệm liên ngành để đảm bảo an ninh cho việc đăng cai giải đấu của Philippines, cùng với sự tham gia của một số cơ quan bộ, ngành chính phủ. Lực lượng đặc nhiệm được chỉ đạo bởi Chủ tịch Ủy ban Thể thao Philippines Richard Bachmaan. Ủy ban Thể thao Philippines đã phê duyệt cho việc chi ít nhất 800 triệu peso Philippines cho việc đăng cai tổ chức của Philippines. Các lớp học ở các trường học công lập và các cơ quan chính phủ ở Vùng đô thị Manila và Bulacan sẽ được nghỉ làm, nghỉ học để phục vụ cho buổi lễ khai mạc giải đấu vào ngày 25 tháng 8 năm 2023. Các sự kiện thử nghiệm. Nhật Bản. Nhà thi đấu Okinawa tổ chức "sự kiện tiền khai trương" từ tháng 4 đến tháng 5 năm 2021, bao gồm các trận đấu trên sân nhà của Câu lạc bộ bóng rổ Ryukyu Golden Kings. Tất cả các hoạt động tại nhà thi đấu này bắt đầu từ tháng 6 năm 2021. Philippines. Vào ngày 28 tháng 6 năm 2023, một sự kiện thử nghiệm được tổ chức bởi Liên đoàn bóng rổ Philippines bao gồm 8 đội tuyển đại học đến từ Hiệp hội Athletic Coliagiate Association và Hiệp hội Thể thao Đại học Philippines được tổ chức tại SM Mall of Asia Arena và Philippine Arena như sự mô phỏng cho nỗ lực đăng cai giải đấu của Philippines. Indonesia. Một sự kiện thử nghiệm được tổ chức tại Nhà thi đấu Indonesia, đó là Giải bóng rổ quốc tế Indonesia, diễn ra từ ngày 2 đến ngày 5 tháng 8 năm 2023, với sự tham gia của 3 đội tuyển Indonesia, Syria và Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất. Các chương trình tình nguyện. Chương trình "Tình nguyện viên" được Ban tổ chức giải đấu tại Philippines phát động vào ngày 30 tháng 11 năm 2022, chính thức mở hồ sơ đăng ký cho những ứng viên có nguyện vọng tham gia tình nguyện cho giải đấu. Các chương trình tình nguyện viên khác cũng diễn ra tại Nhật Bản và Indonesia bắt đầu từ ngày 27 tháng 2 đến ngày 11 tháng 3 năm 2023. Màn chạy đà của các đội tuyển trước giải đấu. Giải bóng rổ quốc tế Acropolls. Giải đấu năm 2023 là giải đấu lần thứ 32 Giải bóng rổ quốc tế Acropolls được tổ chức. Các đội tuyển Serbia, Hy Lạp và Ý tham dự giải đấu, diễn ra từ ngày 8 đến 10 tháng 8 năm 2023 tại Athens, Hy Lạp. Siêu cúp bóng rổ. Vào các ngày 12 và 13 tháng 8 năm 2023, các đội tuyển Đức, Canada, Trung Quốc và New Zealand sẽ tham dự giải đấu lần thứ 34 tại Hamburg, Đức. Giải đấu tại Trung Quốc. Từ ngày 2 đến ngày 6 tháng 8 năm 2023, Giải bóng rổ quốc tế Hà Nguyên được tổ chức tại thành phố Hà Nguyên, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc với sự tham gia của 3 đội tuyển Iran, Philippines và Senegal. Thành phố Thâm Quyến tổ chức Cúp bóng rổ Đoàn kết diễn ra từ ngày 20 đến 21 tháng 8 năm 2023 với sự tham dự của Brasil, Trung Quốc, Serbia, New Zealand và Ý. Chuyến du đấu mùa hè của Pháp. Vào ngày 26 tháng 2 năm 2023, Liên đoàn bóng rổ Pháp xác nhận Pháp sẽ thi đấu các trận đấu của nhiều giải đấu khác nhau để chuẩn bị cho giải đấu – gặp các đội Tunisia, Argentina, Montenegro, Litva và Venezuela. Các trận đấu giao hữu quốc tế của Nhật Bản. Nhật Bản sẽ thi đấu 2 trận giao hữu với Đài Bắc Trung Hoa vào các ngày 8 và 9 tháng 7 năm 2023 tại Hamamatsu, 2 trận giao hữu với New Zealand vào các ngày 8 và 9 tháng 7 năm 2023 tại Thành phố Ōta. Giải đấu Khởi động có sự tham gia của 4 đội tuyển Nhật Bản, Angola, Pháp và Slovenia. Giải đấu Khởi động ở Melbourne. Vào ngày 19 tháng 5 năm 2023, Liên đoàn bóng rổ Úc thông báo rằng từ ngày 14 đến 17 tháng 8 năm 2023, các đội tuyển Úc, Brasil, Venezuela và Nam Sudan sẽ tham dự giải đấu, được tổ chức tại Melbourne. Giải đấu tại Tây Ban Nha. Nhân dịp kỷ niệm 100 năm Ngày thành lập Liên đoàn bóng rổ Tây Ban Nha (1923–2023), có 2 giải đấu được tổ chức tại 2 thành phố của Tây Ban Nha là Málaga và Granada. Tây Ban Nha sẽ thi đấu cả 2 giải đấu nói trên. Giải đấu đầu tiên tại Málaga từ ngày 11 đến ngày 13 tháng 8 năm 2023, cùng với sự tham dự của Hoa Kỳ và Slovenia. Giải đấu thứ hai tại Granada từ ngày 17 đến ngày 19 tháng 8 năm 2023, cùng với sự tham dự của Argentina và Canada. Cúp Tòa thị chính Tbilisi. Các đội tuyển Gruzia, Iran, Jordan và Montenegro tham dự giải đấu, diễn ra từ ngày 12 đến 13 tháng 8 năm 2023 tại Tbilisi, Gruzia. Cúp Trentino. Vào ngày 7 tháng 6 năm 2023, Liên đoàn bóng rổ Ý xác nhận giải đấu Khởi động này có sự góp mặt của các đội tuyển Ý, Thổ Nhĩ Kỳ, Cabo Verde và Trung Quốc tham dự giải đấu, diễn ra từ ngày 4 đến 5 tháng 8 năm 2023 tại Trento, Ý. Thổ Nhĩ Kỳ sẽ tham dự vòng sơ loại môn bóng rổ nam tại Thế vận hội Mùa hè 2024, giải đấu mà họ đăng cai một trong hai giải đấu tại vòng loại khu vực châu Âu. Các trận đấu của Hoa Kỳ tại Abu Dhabi, Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất. Trong một buổi họp báo tại Berlin, Đức vào ngày 8 tháng 3 năm 2023, Liên đoàn bóng rổ Hoa Kỳ xác nhận rằng sẽ hợp tác với Sở Văn hóa và Du lịch Abu Dhabi, Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất, trong đó Hoa Kỳ sẽ đối đầu với Đức và Hy Lạp từ ngày 18 đến 20 tháng 8 năm 2023 tại Abu Dhabi, Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất. Các trận đấu khác. Các trận đấu giao hữu quốc tế dự kiến được diễn ra nhằm khởi động cho giải đấu. Slovenia và Hy Lạp sẽ thi đấu 2 trận giao hữu vào các ngày 2 và 4 tháng 8 năm 2023 tại Ljubljana, Slovenia và Athens, Hy Lạp. Tây Ban Nha và Venezuela sẽ thi đấu giao hữu vào ngày 4 tháng 8 năm 2023 tại Madrid, Tây Ban Nha. Đức và Canada sẽ thi đấu giao hữu vào ngày 9 tháng 8 năm 2023 tại Berlin, Đức. Một số đội tuyển khác cũng đã thành lập các trại tập huấn khác nhau, bao gồm đội chủ nhà Philippines, với những chuyến tập huấn tại Estonia và Litva vào tháng 6 năm 2023, khi họ đấu giao hữu với Phần Lan và các đội trẻ của Estonia, Ukraina và đội tuyển chọn chuyên nghiệp của Litva. Thể thức thi đấu. Tương tự như giải đấu năm 2019, giải đấu sẽ thi đấu với 3 giai đoạn - giai đoạn vòng bảng, vòng 2 và vòng cuối cùng. Ở giai đoạn vòng bảng, 32 đội tuyển sẽ được chia thành 8 bảng đấu, mỗi bảng 4 đội (A–H), các đội cùng bảng sẽ thi đấu theo thể thức vòng tròn một lượt tính điểm. Hai đội đầu bảng sẽ giành vé vào vòng 2, còn hai đội cuối bảng sẽ phải thi đấu vòng phân hạng để xác định các đội xếp vị trí từ 17 đến 32. Ở vòng 2, sẽ có 4 bảng đấu (I–L) mỗi bảng 4 đội đi tiếp từ giai đoạn vòng bảng, 2 đội cùng bảng ở giai đoạn vòng bảng không gặp nhau ở vòng này, họ sẽ gặp 2 đội tuyển xuất sắc nhất ở bảng đấu khác (ví dụ như 2 đội ở bảng A gặp 2 đội ở bảng B) và gặp nhau một lần. Hai đội đứng đầu mỗi bảng sẽ giành vé tham dự vào vòng cuối cùng. Các đội bị loại ở tứ kết sẽ gặp nhau tại vòng phân hạng để xác định các đội xếp vị trí thứ 5 đến thứ 8. Tổ trọng tài. Vào ngày 16 tháng 8 năm 2023, FIBA công bố danh sách 44 trọng tài tham gia điều hành các trận đấu cho giải đấu. Trong số 44 trọng tài, Latvia, Puerto Rico và Hoa Kỳ, mỗi quốc gia đóng góp 3 trọng tài. Đây cũng là lần đầu tiên trong lịch sử giải đấu, trọng tài nữ sẽ tham gia điều hành trận đấu. Các trọng tài người Hoa Kỳ Amy Bonner, Blanca Burns và Jenna Reneau trở thành những trọng tài nữ đầu tiên tham gia điều hành các trận đấu tại các giải đấu bóng rổ quốc tế dành cho nam. Amy Borner từng tham gia điều hành các trận đấu tại 3 kỳ World Cup nữ liên tiếp vào các năm 2014, 2018 và 2022. Blanca Burns và Jenna Reneau từng tham gia điều hành các trận đấu tại vòng loại khu vực châu Mỹ. Trọng tài người Pháp Yohan Rosso, một trong ba trọng tài tham gia điều hành trận chung kết giải đấu năm 2019 đã được lựa chọn. Lễ khai mạc. Philippines. Tại Philippines, lễ khai mạc của giải đấu sẽ diễn ra vào tối ngày 25 tháng 8 năm 2023 tại Philippine Arena, Bocaue, Bulacan, với 2 trận đấu đầu tiên của bảng A (Angola vs Ý và Cộng hòa Dominica vs Philippines. Sự kiện này sẽ có màn trình diễn của nữ ca sĩ người Philippines Sarah Geronimo, ban nhạc Philippines The Dawn và Ben&Ben và nhóm nhạc nam Alamat. Tổng thống Philippines Bongbong Marcos ban đầu dự định sẽ thực hiện nghi thức ném bóng tại Bocaue, tuy nhiên ông đã không thể thực hiện được sau khi trễ giờ đến nhà thi đấu. Indonesia. Tại Indonesia, lễ khai mạc của giải đấu sẽ diễn ra vào tối cùng ngày tại Nhà thi đấu Indonesia, Jakarta với trận đấu đầu tiên của bảng H giữa Canada và Pháp. Sự kiện này sẽ có màn trình diễn của nữ ca sĩ kiêm diễn viên người Indonesia Agnez Mo. Tổng thống Indonesia Joko Widodo dự định sẽ tham dự trực tiếp lễ khai mạc, nhưng ông không thể tham dự. Tuy nhiên, ông đã có một bài phát biểu và tuyên bố khai mạc giải đấu qua một đoạn video ngắn. Nhật Bản. Buổi lễ khai mạc cũng diễn ra tại Nhà thi đấu Okinawa, Nhật Bản đã trình diễn các tiết mục văn hóa đặc sắc của Nhật Bản. Buổi lễ tại Thành phố Okinawa diễn ra trước trận đấu bảng E giữa Đức và Nhật Bản. Thủ tướng Nhật Bản Fumio Kishida đã tiến hành nghi thức ném bóng trong trận đấu giữa Đức và Nhật Bản. Giai đoạn vòng bảng. Tiêu chí xếp hạng. 1. Số điểm các đội kiếm được thông qua kết quả các trận đấu: 2. Lịch sử đối đầu thông qua hình thức tính điểm ở trên. 3. Sự khác biệt về điểm số trong trận đấu mà hai đội hòa nhau. 4. Điểm số trong các trận đấu mà hai đội hòa nhau. 5. Sự khác biệt về điểm số trong tất cả các trận đấu. 6. Điểm số nhận được trong tất cả các trận đấu. Bảng A. Địa điểm: Bảng B. Địa điểm: Đấu trường Araneta, Thành phố Quezon Bảng C. Địa điểm: SM Mall of Asia Arena, Pasay Bảng D. Venue: SM Mall of Asia Arena, Pasay Bảng E. Địa điểm: Nhà thi đấu Okinawa, Thành phố Okinawa Bảng F. Địa điểm: Nhà thi đấu Okinawa, Thành phố Okinawa Bảng G. Venue: Nhà thi đấu Indonesia, Jakarta Bảng H. Đia điểm: Nhà thi đấu Indonesia, Jakarta Vòng 2. Bảng I. Địa điểm: Đấu trường Araneta, Thành phố Quezon Bảng J. Địa điểm: SM Mall of Asia Arena, Pasay Bảng K. Địa điểm: Nhà thi đấu Okinawa, Thành phố Okinawa Bảng L. Địa điểm: Nhà thi đấu Indonesia, Jakarta Phân hạng 17–32. Bảng M. Địa điểm: Đấu trường Araneta, Thành phố Quezon Bảng N. Địa điểm: SM Mall of Asia Arena, Pasay Bảng O. Địa điểm: Nhà thi đấu Okinawa, Thành phố Okinawa Bảng P. Địa điểm: Nhà thi đấu Indonesia, Jakarta Vòng cuối cùng. Địa điểm: SM Mall of Asia Arena, Pasay Thống kê. "Tính đến ngày 31 tháng 8 năm 2023." Tiếp thị. Biểu trưng. Logo chính thức của giải đấu được công bố vào ngày 4 tháng 12 năm 2020. Ý tưởng của logo bao gồm 3 ý tưởng chính: Trái tim tượng trưng cho niềm đam mê với bóng rổ, chiếc cúp Naismith tượng trưng cho giải thưởng được trao cho đội vô địch, và số "23" được biểu hiện là năm diễn ra giải đấu. Logo của giải đấu đã được thống nhất rằng thời hạn sớm nhất là vào tháng 7 năm 2019 và chờ được FIBA phê duyệt vào thời điểm đó. Logo được Công ty VMLY&R của Hoa Kỳ thiết kế. Vào ngày 28 tháng 11 năm 2020, FIBA đã phát động chiến dịch "Don't Miss a Beat" (tạm dịch là: "Đừng bỏ lỡ một nhịp nào") trước khi ra mắt logo. Buổi lễ ra mắt logo chính là sự kiện có ảnh hưởng lớn nhất trong lịch sử hình thành và phát triển của FIBA. Ngoài ra, còn có logo cho các thành phố chủ nhà là Manila (Philippines), Okinawa (Nhật Bản) và Jakarta (Indonesia). Biểu trưng giải đấu tại Manila chính là hình xe Jeepney, một loại phương tiện giao thông công cộng phổ biến nhất ở Philippines. Còn tại Okinawa và Jakarta chính là hình của một số địa danh – Thành Shuri và Đài Tưởng niệm Quốc gia, một di tích lịch sử quốc gia của Indonesia, nằm ở Jakarta. Khẩu hiệu. Vào ngày 31 tháng 8 năm 2021, trong buổi lễ bốc thăm vòng loại, FIBA đã đưa ra khẩu hiệu cho giải đấu là: "Win For All" (tạm dịch là: "Chiến thắng cho tất cả"). Linh vật. Vào ngày 9 tháng 6 năm 2022, FIBA chính thức công bố linh vật chính thức của giải đấu. Theo tiểu sử hư cấu, linh vật này không được đặt tên, được sáng tạo dựa theo ý tưởng của 3 cổ động viên bao gồm Caloy (người Philippines), Kota (người Nhật Bản) và Dewi (người Indonesia) để tạo ra "thứ gì đó tuyệt vời để giúp cho mọi người đoàn kết và đại diện cho tất cả". Linh vật của giải đấu là một chú robot có mặt gắn đèn LED cho phép chú robot này kết nối và tương tác với mọi người thông qua các biểu cảm với nhau. Ngoài ra, linh vật còn có một vòng bóng rổ được gắn sau lưng như một lời tuyên truyền cho tầm quan trọng của sự tái chế. Các màu đỏ, xanh và vàng của linh vật tượng trưng cho quốc kỳ của 3 nước chủ nhà. Một cuộc thi đặt tên trực tuyến đã được tổ chức vào ngày 28 tháng 7 năm 2022, theo đó, linh vật này được đặt tên là "JIP", với chữ cái đầu tiên của 3 nước chủ nhà – Philippines, Nhật Bản (Japan) và Indonesia. Quả bóng chính thức. Quả bóng chính thức được sử dụng cho giải đấu được FIBA công bố vào ngày 29 tháng 4 năm 2023 trong buổi lễ bốc thăm diễn ra tại Thành phố toàn cầu Bonifacio, Taguig. Tương tự như giải đấu năm 2019, quả Molten BG5000 của Tập đoàn Molten (Nhật Bản) tiếp tục được sử dụng cho giải đấu nhưng được thiết kế mới, lấy cảm hứng từ sóng, vàng và trái tim. Với biệt danh "The Passion Wave" (tạm dịch là: "Làn sóng đam mê"), quả bóng tượng trưng cho nhịp tim sinh ra từ niềm đam mê với bóng rổ vang dội trên khắp thế giới. Điểm dừng chân của chiếc cúp. Vài tháng trước khi giải đấu diễn ra, chiếc cúp Naismith đã bắt đầu cuộc hành trình đi qua 30 quốc gia tham dự giải đấu và 3 nước chủ nhà (Philippines, Nhật Bản, Indonesia). Điểm dừng chân của chiếc cúp đã được triển khai tại Thành phố toàn cầu Bonifacio ở Taguig, Vùng đô thị Manila, Philippines trong tuần lễ bốc thăm vòng bảng của giải đấu. Trước khi ra mắt, chiếc cúp Naismith đã được truyền đi khắp các phương tiện thông tin đại chúng trước khi đến thăm Chung cư Fort Bonifacio tại Taguig một ngày trước buổi lễ bốc thăm. Vào ngày 1 tháng 5 năm 2023, chiếc cúp sẽ có điểm dừng chân quốc tế đầu tiên tại Bắc Kinh, Trung Quốc và sẽ kết thúc vào ngày 24 tháng 8 năm 2023, một ngày trước giải đấu. Đại sứ. Cựu tuyển thủ người Argentina và từng giúp Argentina 2 lần giành ngôi á quân thế giới Luis Scola trở thành Đại sứ Toàn cầu cho giải đấu vào ngày 14 tháng 12 năm 2022. Người từng 2 lần vô địch NBA và vô địch giải đấu năm 2006 Pau Gasol (người Tây Ban Nha) cùng với Luis Scola trở thành Đại sứ toàn cầu của giải đấu vào ngày 6 tháng 2 năm 2023. Pau Gasol cũng từng là Đại sứ của Giải vô địch bóng rổ nữ thế giới 2023 tại Úc. Người đã từng 10 lần vô địch NBA và 3 lần giành Huy chương vàng Olympic Carmelo Antony (người Hoa Kỳ) cũng trở thành Đại sứ toàn cầu cho giải đấu vào ngày 24 tháng 2 năm 2023. Vào tháng 8 năm 2022, nam diễn viên người Indonesia Raffi Ahmad và Hoa hậu Hoàn vũ 2018 người Philippines Catriona Gray lần lượt được công bố là đại sứ của giải đấu tại Indonesia và Philippines. Các cựu tuyển thủ người Philippines Lewis Alfred Vasquez Tenorio, Larry Fonancier và Gary David cũng trở thành đại sứ của giải đấu tại Philippines. B.League được công bố là đại sứ của giải đấu tại Nhật Bản. Cựu thành viên của đội tuyển quốc gia Nhật Bản và chủ tịch Câu lạc bộ bóng rổ Levanga Hokkaido Takehiro Orimo được công bố là đại sứ của giải đấu tại Nhật Bản vài tuần trước buổi lễ bốc thăm. Nữ diễn viên Indonesia gốc Đức Cinta Laura trở thành đại sứ của giải đấu tại Indonesia vào ngày 11 tháng 7 năm 2023. Bán vé. Đợt bán vé đầu tiên bắt đầu từ ngày 1 tháng 3 năm 2022. Vé "Following My Team"' (tạm dịch là: "Theo dõi đội của tôi") dành cho Philippines và Nhật Bản với tất cả 6 trận đấu của giai đoạn vòng bảng diễn ra ở 2 nước. Đối với Indonesia, vé "Venue Pass" (tạm dịch là: "Thẻ địa điểm") với tất cả 12 trận đấu diễn ra tại Nhà thi đấu Indonesia. Vé vào các ngày cuối tuần cũng có sẵn cho các trận đấu diễn ra vào các ngày 26–27 tháng 8 và ngày 2–3 tháng 9 năm 2023 tại các địa điểm trên. Vào ngày 25 tháng 8 năm 2022, đợt bán vé bắt đầu 1 năm trước giải đấu. Các vé dành cho các trận đấu thuộc vòng cuối cùng của giải tại Philippine Arena ban đầu được phát hành, cũng như vé 2 ngày cho các trận đấu thuộc giai đoạn vòng bảng và vòng 2 diễn ra tại Nhà thi đấu Okinawa. Hai vé có sẵn cho vòng cuối cùng, mang tên"Finals Ultimate Fan Pass" (tạm dịch là: "Vòng chung kết dành cho những người hâm mộ"), bao gồm tất cả các trận đấu tại vòng cuối cùng, và vé "Finals Superfan Pass" (tạm dịch là: "Vòng chung kết dành cho những người hâm mộ cuồng nhiệt") cho các trận đấu từ bán kết đến chung kết của giải đấu. Vé hai ngày, có hiệu lực trong hai ngày thi đấu đầu tiên của giải đấu, bao gồm các trận đấu thuộc giai đoạn vòng bảng tại Đấu trường Araneta và SM Mall of Asia Arena. Các vé dành cho các trận đấu vòng cuối cùng đã được chuyển đến SM Mall of Asia Arena sau khi FIBA thay đổi địa điểm ở vòng đấu này. Vé chơi một trận và vé chơi trong một ngày đã có mặt tại cả 3 thành phố chủ nhà kể từ tháng 6 năm 2023. Đồng hồ đếm ngược. 3 chiếc đồng hồ đếm ngược được ra mắt từ ngày 25 đến ngày 28 tháng 8 năm 2022 tại Philippines, Nhật Bản và Indonesia để đánh dấu còn 1 năm nữa giải đấu sẽ diễn ra. Những chiếc đồng hồ này đặt tại Tòa nhà Tenbusu Naha ở Naha, Thành phố Okinawa; Tượng đài Vòng xoay HI ở Jakarta và Khu mua sắm SM Mall of Asia tại Pasay. Đồng hồ đếm ngược ở Indonesia sau đó được chuyển đến Cửa hàng bách hóa Sarinah sau buổi lễ công bố.
19,822,681
912316
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822681
Persis
Persis (, "Persís;" Tiếng Ba Tư cổ: , "Parsa"; , "Pârs"), còn được gọi là Pháp vực, là khu vực Fars, nằm ở phía tây nam của Iran hiện đại, hiện đã trở thành một tỉnh. Người Ba Tư được cho là ban đầu đã di cư từ Trung Á hoặc có thể, có khả năng cao, từ phía bắc thông qua Caucasus. Sau đó, họ đã di cư đến vùng Persis hiện tại vào đầu thế kỷ 1 TCN. Tên quốc gia Ba Tư bắt nguồn trực tiếp từ tiếng Ba Tư cổ "Parsa". Đế quốc Achaemenid. Các người Ba Tư cổ đại đã xuất hiện trong vùng Persis từ khoảng thế kỷ 10 TCN. Họ trở thành những người cai trị của đế chế lớn nhất thế giới từ trước tới nay dưới triều đại Achaemenid được thành lập vào cuối thế kỷ 6 TCN, ở đỉnh điểm của nó mở rộng từ Thrace-Macedonia, Bulgaria-Paeonia và Đông Âu thực sự ở phía tây, đến thung lũng Sông Indus ở phía đông xa. Những di tích của Persepolis và Pasargadae, hai trong số bốn thủ đô của Đế chế Achaemenid, nằm ở Fars.
19,822,684
919594
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822684
Astereae
Astereae là một họ thực vật trong gia đình Asteraceae, bao gồm các loại cây thảo, cây bụi nhỏ, cây bụi và cây gỗ. Chúng thường mọc chủ yếu ở những vùng ôn đới trên thế giới. Các loại cây trong họ này phân bố rộng rãi trên khắp cả thế giới, chia thành hơn 250 chi và hơn 3.100 loài, đứng thứ hai về số lượng sau họ thực vật Senecioneae. Sự phân loại của họ thực vật Astereae đã thay đổi đáng kể sau khi có bằng chứng từ cả hình thái học và phân tử, cho thấy cần tách ra nhiều chi khác nhau hoặc di chuyển để phản ánh chính xác mối quan hệ giữa các loài cây. Một nghiên cứu của R. D. Noyes và L. H. Rieseberg cho thấy hầu hết các chi trong họ thực vật này tại Bắc Mỹ thực sự thuộc một nhóm duy nhất, có nghĩa là chúng có một tổ tiên chung. Nhóm này được gọi là nhóm duy nhất Bắc Mỹ. Guy L. Nesom và Harold E. Robinson đã tham gia vào công việc nghiên cứu gần đây và tiếp tục phân loại lại các chi cây trong họ trên toàn cầu. Các phân bộ. , họ Astereae được chia thành 36 phân bộ được chấp nhận. Các chi được chọn. Nguồn: FNA, E+M, UniProt, NHNSW, AFPD
19,822,687
912316
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822687
Castaways
Castaways là một khách sạn và sòng bạc trên đại lộ Las Vegas ở Paradise, Nevada. Nó bắt đầu từ những năm 1930, ban đầu chỉ là một nhà nghỉ nhỏ mang tên Mountain View. Nó trở thành San Souci vào năm 1939 và trải qua một số thay đổi về sở hữu trong những năm đầu của mình. Một phần mở rộng khách sạn đã được khai trương vào ngày 21 tháng 8 năm 1955, khi tài sản trở thành Khách sạn Sans Souci. Một sòng bạc, phòng trình diễn và nhà hàng cuối cùng cũng được mở cửa vào ngày 23 tháng 10 năm 1957. Những cơ sở này đóng cửa ít hơn một năm sau đó do vấn đề tài chính, mặc dù khách sạn vẫn tiếp tục hoạt động. Sau khi tái tổ chức sau phá sản, những cơ sở đã đóng cửa lại vào tháng 5 năm 1960. Tuy nhiên, tài sản này nhanh chóng đóng cửa do khó khăn tài chính tiếp tục. Nhà đầu tư Ben Jaffe mua lại Sans Souci và mở lại với tên Castaways theo chủ đề Polynesia vào ngày 1 tháng 9 năm 1963. Một điểm đặc biệt mới là một bản sao đền Jain được gọi là Cửa vào May Mắn. Jaffe cũng thêm nhiều phòng khách sạn hơn. Ông phục vụ như một người chủ nhà cho phần sòng bạc, được vận hành bởi một nhóm riêng biệt. Sòng bạc đóng cửa lại vào tháng 12 năm 1964 và mở cửa lại một năm sau đó dưới sự điều hành của một nhóm vận hành mới. Sau một lần đóng cửa khác, nó mở cửa lại vào tháng 5 năm 1967 và Jaffe đã bán toàn bộ tài sản vào cuối năm đó cho Howard Hughes, đây là lần mua sòng bạc thứ ba của ông tại Las Vegas. Hughes sở hữu tài sản này thông qua công ty Hughes Tool Company, và sau đó là thông qua tập đoàn Summa Corporation của ông. Vào năm 1986, chủ sòng bạc Steve Wynn mua lại Castaways cùng với mảnh đất bỏ hoang gần đó với kế hoạch xây dựng một khu nghỉ mớí trên mảnh đất này. Castaways đã đóng cửa vào ngày 20 tháng 7 năm 1987. Khu nghỉ mới của Wynn, The Mirage, được khai trương vào năm 1989. Tên Castaways sau này được sử dụng cho Showboat Hotel and Casino trên Boulder Highway, bắt đầu từ năm 2001. Lịch sử. Những năm đầu. Tài sản này bắt đầu từ những năm 1930, lúc đó chỉ là một ngôi nhà nghỉ nhỏ được gọi là Mountain View auto court. Vào năm 1939, nó được bán cho W. R. Miller và Tiến sĩ Freeman H. Smith, họ đã đổi tên thành San Souci. Họ bán lại nó cho Burton Miller và vợ ông vào năm 1941. Năm 1946, khách sạn San Souci với 16 phòng được bán một lần nữa, cho luật sư Las Vegas là H. Cleveland Schultz. Vào ngày 21 tháng 8 năm 1955, lễ khai trương của Khách sạn San Souci được đổi tên đã diễn ra sau khi đã tiến hành cải tạo bao gồm một tòa khách sạn hai tầng với 82 phòng và một hồ bơi có kích thước như ở Olympic. Phần sòng bạc mở cửa vào ngày 23 tháng 10 năm 1957. Hoạt động sòng bạc được điều hành bởi George E. Mitzell và Harold V. Hinds. Tài sản cũng có sự biểu diễn trực tiếp trong Phòng Jamaica mới với sức chứa 400 người. Vào cuối năm 1957, Mitzell đã thông báo kế hoạch thêm 100 phòng nữa, tuy nhiên, kế hoạch này không thực hiện được. Năm 1958, một công ty thịt đệm đã kiện Khách sạn San Souci với số tiền 21,500 đô la do không thanh toán. Nghệ sĩ saxophone Charlie Ventura cũng kiện khách sạn sau khi anh bị té ngã trên sân khấu của sòng bạc trong một buổi biểu diễn. Vào tháng 7 năm 1958, hai người đàn ông ở Las Vegas là Jerry Kastner và Arthur Rozen đã đồng ý đầu tư tổng cộng 75,000 đô la để duy trì hoạt động. Tuy nhiên, cuối cùng Kastner chỉ mua cổ phần sòng bạc trị giá 31,000 đô la và sau đó ông cho biết ông rút lui khỏi thỏa thuận vì đã bị hiểu lầm. Vào tháng 8 năm 1958, phần sòng bạc và phòng biểu diễn đã đóng cửa và tài sản này đã khai mạc đơn xin phá sản. Vào thời điểm này, Cục Thuế Thu nhập Liên bang đã tịch thu tiền từ Sans Souci vì sòng bạc không đóng thuế cho hoạt động ca nhạc. Tuy nhiên, khách sạn không bị tác động. Sau đó, Sans Souci đã kiện Kastner đòi bồi thường tổn thất trị giá 400,000 đô la, tuyên bố rằng việc Kastner rút ra đã gây ra phá sản cho tài sản này. Tuy nhiên, tòa án sau cùng đã ra phán quyết ủng hộ Kastner. Năm 1959, một thẩm phán liên bang đã phê duyệt kế hoạch tổ chức lại bao gồm việc cho thuê sòng bạc, phòng trình diễn, nhà hàng và quầy bar cho một nhóm mới trong vòng năm năm, với giá 8,500 đô la mỗi tháng. Phòng biểu diễn đã mở cửa lại vào tháng 5 năm 1960, và tiểu bang cấp phép cho sòng bạc để thêm các trò chơi bàn; trước đó, chỉ được cấp phép để vận hành máy đánh bạc. Vào tháng 8 năm 1960, Cục Thuế Thu nhập Nội bộ tịch thu 10 máy đánh bạc, được xem là hàng cấm sau khi sòng bạc không mua tem thuế. Vào tháng 11 năm 1961, Khách sạn Sans Souci lại phải đối mặt với tình trạng phá sản sau khi bốn chủ nợ chính từ chối thỏa thuận về tài chính. Số nợ của tài sản này lên tới hơn 900,000 đô la. Cuối cùng, vào tháng 11 năm 1962, nơi này phải đóng cửa và được bán thông qua cuộc đấu giá phá sản với giá 749,600 đô la. Chủ sở hữu mới là Ben Jaffe, một nhà đầu tư tại Las Vegas và cũng là người sở hữu của Khách sạn Tropicana. Castaways. Ngay sau khi mua lại, Jaffe đã thông báo kế hoạch đổi tên tài sản thành "Castaways" với phong cách Polynesian và thêm nhiều phòng mới trong quá trình nâng cấp 82 phòng đang có. Trước đó, Jaffe đã xây dựng một khách sạn Castaways phổ biến tại Miami Beach, Florida. Công trình xây phòng mới đã bắt đầu vào năm 1963. Trong năm đó, Đài phát thanh KLAS đã chuyển trụ sở đến Castaways. Sau đó, KVEG đã thay thế vị trí này. Khách sạn Castaways đã mở cửa trở lại vào ngày 1 tháng 9 năm 1963. Sòng bạc được vận hành bởi doanh nhân dầu mỏ từ Mississippi Ike P. LaRue và đối tác kinh doanh của ông, Everett Eugene McCarlie. LaRue là anh trai của Fred LaRue, người cũng đầu tư vào hoạt động sòng bạc. Jaffe đã đóng vai trò là chủ nhà cho nhóm này. Sòng bạc, nhà hàng và quầy bar đã đóng cửa một lần nữa vào ngày 3 tháng 12 năm 1964 do vấn đề tài chính. Khách sạn vẫn tiếp tục hoạt động, và nhà hàng sau đó được mở cửa lại. Vào tháng 6 năm 1965, một nhóm mới đề xuất đầu tư 100,000 đô la để mở lại sòng bạc và tiếp quản hoạt động từ nhóm LaRue. Đề nghị này đã được nhà nước chấp thuận, và sòng bạc và phòng trình diễn đã mở cửa lại vào tháng 10 năm 1965, trước khi đóng cửa một lần nữa sau ba tháng. Vào tháng 5 năm 1967, sòng bạc mở cửa trở lại với Oliver Kahle là người điều hành. Chưa mấy lâu sau đó, vào tháng 9 năm 1967, Howard Hughes đã thỏa thuận mua lại Castaways, đây là lần thứ ba ông mua một sòng bạc tại Las Vegas. Hughes đã mua toàn bộ tài sản từ Jaffe và tiếp quản phần vốn hoạt động của Kahle. Thỏa thuận mua bán đã được Ủy ban Gaming Nevada chấp thuận vào tháng 10 năm 1967, với giá 3,3 triệu đô la. Lúc đó, sòng bạc có 10 bàn chơi và 152 máy đánh bạc. Sở hữu và hoạt động bởi Hughes Tool Company, Castaways sẽ là sòng bạc nhỏ nhất trong số sáu sòng bạc tại Las Vegas mà Hughes sau này sở hữu. Vào năm 1969, sân khấu phòng biểu diễn lớn hơn đã được thêm vào tại Castaways. Vào tháng 10 năm 1971, các trò chơi bàn trong sòng bạc đã đóng cửa để thực hiện việc cải tạo sòng bạc với kinh phí 250.000 đô la. Tuy nhiên, các máy đánh bạc và phòng khách sạn vẫn tiếp tục hoạt động bình thường. Công việc cải tạo phần còn lại của sòng bạc diễn ra vào năm 1972. Trong năm đó, Summa Corporation đã được thành lập để quản lý các sòng bạc của Hughes. Một chương trình cải tạo và mở rộ trị giá 2,5 triệu đô la đã hoàn thành vào năm 1981. Vào tháng 10 năm 1986, sòng bạc Castaways cùng mảnh đất trống gần đó đã được bán với giá 50 triệu đô la cho chủ sòng bạc Steve Wynn, người dự định xây dựng một khu nghỉ dưỡng mới trên khu đất này. Trong thời gian chờ đợi đó, Summa tiếp tục thuê khu đất Castaways và vận hành khách sạn-casino. Nhà phát triển bất động sản Donald Trump trước đây đã thảo luận về việc mua lại Castaways, nhưng sau đó ông Wynn đưa ra một đề nghị tốt hơn. Một lễ chia tay đã diễn ra tại sòng bạc vào ngày 19 tháng 7 năm 1987, trước khi sự đóng cửa của cơ sở vào ngày hôm sau. Nhiều người quan trọng, bao gồm cả ông Wynn, đã tham dự buổi lễ này. Nhiều món quà đã được tặng làm kỷ niệm, và giải thưởng lớn nhất là biển hiệu dài 90 feet, nặng 6 tấn, từ phía đông của sòng bạc. Khi Castaways đóng cửa, nơi này có 228 phòng và 650 nhân viên. Dự định sẽ phá hủy Castaways để dành đất cho kế hoạch xây dựng khu nghỉ dưỡng mới của Wynn, và kế hoạch này đã trở thành hiện thực với sự ra mắt của The Mirage vào năm 1989. Mảnh đất Castaways trước đây đã trở thành phần bắc của The Mirage nằm trên Đại Lộ Las Vegas. Tên Castaways sau này cũng được sử dụng cho Showboat Hotel and Casino trên Boulder Highway, bắt đầu từ năm 2001. Những Điểm Thú Vị. Cổng Vào Vận May. Năm 1963, Castaways đã thêm một bản sao của ngôi đền Jain như một điểm tham quan du lịch. Ban đầu, nó được xây dựng cho Triển lãm Thế giới St. Louis năm 1904. Castaways gọi ngôi đền này là Cổng Vào Vận May. Ngôi đền này nặng 14 tấn, cao 35 feet và bao gồm một bậc cầu thang xoắn đằng lên ban công. Nó nằm phía sau tòa nhà sòng bạc, trong một khu vực được rào chắn, bên cạnh một cái giếng ước ao. Năm 1980, Trung Tâm Jain Nam California (JCSC) biết về sự tồn tại của bản sao ngôi đền và việc sử dụng nó như một điểm tham quan du lịch, nhưng JCSC không đồng tình: "Chúng tôi tin rằng việc trưng bày ngôi đền theo cách này là một sự xúc phạm". JCSC yêu cầu ngôi đền được hiến tặng, nhưng Summa lại đề nghị bán nó với giá 250.000 đô la, cao hơn so với khả năng chi trả của JCSC. Năm 1987, trong lúc Castaways đóng cửa, ngôi đền đã được tháo dỡ và hiến tặng cho các thành viên thuộc tôn giáo Jain tại Las Vegas. Kể từ đó, nó đã được xây dựng lại tại JCSC. Giải Trí. Trong những năm đầu của khách sạn, Castaways đã có màn trình diễn của những người phụ nữ mặc đồ hóa trang thành nàng tiên cá. Năm 1964, Castaways đã giới thiệu một loạt các chương trình biểu diễn mới tại Phòng Samoa mới, bao gồm cả "Bottoms Up", một vở hài nhạc. Chương trình này được sản xuất bởi Breck Wall. Một chương trình khác có tên "Happy-Go-Lucky", do Lili St. Cyr và Hank Henry đóng chính. "Watusi Scandals", một chương trình nhạc kịch có sự tham gia của màn nhảy Watusi, được mở cửa vào năm 1965. Bốn năm sau đó, Wall mở một chương trình khác có tên "Cotton Club Revue '70". Castaways cũng đã đón chào các danh hài Redd Foxx và Pearl Williams.
19,822,688
919594
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822688
Green Valley Ranch
Green Valley Ranch là một khu nghỉ dưỡng và sòng bạc nằm trong cộng đồng cùng tên ở Henderson, Nevada. Nó do tập đoàn Station Casinos sở hữu và vận hành, bao gồm một sòng bạc có diện tích lên đến 143,891 feet vuông. Kế hoạch xây dựng khu nghỉ dưỡng này ban đầu được công ty American Nevada Corporation đề xuất và được thành phố chấp thuận vào năm 1996. Ngoài việc xây dựng khách sạn và sòng bạc, công ty còn dự định xây dựng một dự án kết hợp khác đi kèm. Công việc xây dựng bắt đầu vào năm 2000 sau khi American Nevada hợp tác với Station Casinos, người sẽ cùng chia sở hữu và điều hành tài sản này. Green Valley Ranch chính thức mở cửa vào ngày 18 tháng 12 năm 2001, với tổng cộng 201 phòng và một sòng bạc có diện tích lên đến 50,000 feet vuông. Mặc dù nằm trong danh mục sòng bạc dành cho người dân địa phương, khu nghỉ dưỡng được thiết kế với phong cách tinh tế. Với tổng chi phí xây dựng lên tới 300 triệu đô la, đây là dự án khu nghỉ dưỡng đắt đỏ nhất của Station Casinos cho đến thời điểm đó và cũng là sòng bạc dành cho người dân địa phương đắt đỏ nhất trong lịch sử Las Vegas. Ngoài các nhà hàng đa dạng, khu nghỉ dưỡng còn có một rạp chiếu phim Regal Cinemas và một spa. Dự án kết hợp khác của American Nevada cũng đã được mở cửa trên mảnh đất kế cận vào năm 2004 với tên gọi The District at Green Valley Ranch. Sau đó, vào năm 2005, khách sạn đã được mở rộng thêm, nâng tổng số phòng lên 497. Station Casinos đã thay đổi thành sở hữu toàn bộ khu nghỉ dưỡng vào tháng 6 năm 2011. Nghệ sĩ Biểu diễn. Vào tháng 12 năm 2004, một nơi diễn nhạc mang tên Trung tâm Sự kiện Lớn được mở ra. Vào tháng 5 năm 2007, một nơi biểu diễn khác, gọi là Hội trường Ovation, được mở cửa với sức chứa cho 500 người. Nơi này thường tổ chức các buổi biểu diễn miễn phí. Ban nhạc Sin City Sinners bắt đầu biểu diễn thường xuyên tại Ovation từ năm 2009. Một năm sau đó, khu nghỉ dưỡng được trao giải "sòng bạc của năm" bởi Học viện Âm nhạc Nước Mỹ, nhờ việc tổ chức các buổi biểu diễn của các nghệ sĩ nhạc đồng quê như Blake Shelton, Lady Antebellum, Montgomery Gentry và Toby Keith. Ngoài ra, còn có những nghệ sĩ biểu diễn nổi tiếng khác như The Fixx, Julio Iglesias, Asia, và Michael Grimm. Tuy nhiên, vào tháng 11 năm 2012, Ovation đã đóng cửa, và được thay thế bằng phòng bingo.
19,822,691
641111
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822691
Tiếng Đức Đông Trung
Tiếng Đức Đông Trung () là ngôn ngữ Trung Đức không phải là phương ngữ Franken và là một phần của nhóm ngôn ngữ Thượng Đức. Tiếng Đức chuẩn ngày nay là một biến thể của ngôn ngữ Thượng Đức, đã thực sự phát triển từ một thỏa hiệp của tiếng Đức Đông Trung (đặc biệt là phương ngữ Thượng Saxon được thúc đẩy bởi Johann Christoph Gottsched) và tiếng Đức Đông Franken. Các phương ngữ Đức Trung Đông được nói chủ yếu ở Trung Đức và một phần của Brandenburg, và trước đây được nói ở Silesia và Bohemia. Phương ngữ. Tiếng Đức Trung Đông được nói ở các phần lớn của những gì ngày nay được gọi là vùng văn hóa Trung Đức ("Mitteldeutschland"). Nó bao gồm theo Glottolog: Một bộ phận khác là: Nordobersächsisch-Südmärkisch. Khu vực phương ngữ "Nordobersächsisch-Südmärkisch" nằm ở phía bắc của Thượng Saxon và phía Tây Bắc của Silesia, ở phía nam nó bao gồm một phần của Lusatia và ở phía bắc, phụ thuộc vào định nghĩa, nó có thể bao gồm khu vực xung quanh Berlin. Nó bao gồm nhiều phần phụ, chuyển sang nhóm Thượng Đức (từ Hạ Đức hoặc Sorbia) xảy ra ở những thời điểm khác nhau và trong những điều kiện khác nhau.
19,822,693
11
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822693
Chiến tranh Nga-Thổ Nhĩ Kỳ (1787–1792)
Chiến tranh Nga-Thổ Nhĩ Kỳ 1787–1792 liên quan đến một nỗ lực không thành công của Đế quốc Ottoman nhằm lấy lại các vùng đất đã mất vào tay Đế quốc Nga trong quá trình Chiến tranh Nga-Thổ Nhĩ Kỳ (1768–1774) trước đó. Cuộc chiến này diễn ra đồng thời với Chiến tranh Áo-Thổ Nhĩ Kỳ (1788–1791), Chiến tranh Nga-Thụy Điển (1788–1790) và Chiến tranh Nhà hát. Trong cuộc chiến này, vào ngày 25 tháng 9 năm 1789, một phân đội của Lục quân Đế quốc Nga dưới quyền chỉ huy của Alexander Suvorov và Ivan Gudovich, đã chiếm Khadjibey và Yeni Dünya cho Đế quốc Nga. Năm 1794, Odesa được thành lập theo sắc lệnh của Nữ hoàng Nga Yekaterina Đại đế. Nga chính thức giành quyền sở hữu sanjak Özi (tỉnh Ochakiv) vào năm 1792 và khu vực trở thành một phần của Phó vương quốc Yekaterinoslav. Đế quốc Nga nắm toàn quyền kiểm soát Krym, cũng như vùng đất giữa sông Nam Bug và sông Dniester. Bối cảnh. Vào tháng 5 và tháng 6 năm 1787, Yekaterina II của Nga thực hiện một lễ rước khải hoàn qua Novorossiya và Krym mới sáp nhập cùng với đồng minh của bà là Joseph II của Thánh chế La Mã. Những sự kiện này, tin đồn về Kế hoạch Hy Lạp của Yekaterina, và xích mích do khiếu nại lẫn nhau về việc vi phạm Hiệp định Küçük Kaynarca kết thúc cuộc chiến trước đó, đã khuấy động dư luận ở Constantinople, trong khi các đại sứ Anh và Pháp hỗ trợ vô điều kiện cho phái chiến tranh của Ottoman. Chiến tranh. Năm 1787, Ottoman yêu cầu người Nga di tản khỏi Krym và từ bỏ khu vực nắm giữ của họ gần Biển Đen, điều này được Nga nhìn nhận là "casus belli" (kiếm cớ chiến tranh). Nga tuyên chiến vào ngày 19 tháng 8 năm 1787, và người Ottoman tống giam đại sứ Nga Yakov Bulgakov. Sự chuẩn bị của Ottoman là không đầy đủ và thời điểm được lựa chọn là sai lầm, vì Nga và Áo đang trong liên minh. Người Ottoman tập hợp lực lượng trên khắp lãnh thổ của họ, và Süleyman Bey từ Anatolia tự mình ra mặt trận với 4.000 binh sĩ. Đế quốc Ottoman mở đầu chiến dịch bằng một cuộc tấn công vào hai pháo đài gần Kinburn ở miền nam Ukraina. Tướng quân Nga Alexander Suvorov ngăn chặn hai cuộc tấn công trên biển này của Ottoman vào tháng 9 và tháng 10 năm 1787, nhờ đó bảo vệ được Krym. Tại Moldavia, quân đội Nga chiếm được các thành phố Chocim và Jassy của Ottoman. Ochakov nằm tại cửa sông Dnepr thất thủ vào ngày 6 tháng 12 năm 1788, sau cuộc vây hãm kéo dài sáu tháng của Thân vương Grigory Potemkin và Suvorov. Tất cả thường dân trong các thành phố bị chiếm lĩnh đều bị tàn sát theo lệnh của Potemkin. Mặc dù phải chịu một loạt thất bại trước người Nga, Đế quốc Ottoman đạt được một số thành công trước quân Áo do Hoàng đế Joseph II lãnh đạo, tại Serbia và Transylvania. Đến năm 1789, Đế quốc Ottoman bị quân Nga và Áo đẩy lùi tại Moldavia. Tệ hơn nữa, vào ngày 1 tháng 8, quân Nga dưới quyền chỉ huy của Suvorov giành được chiến thắng trước quân Ottoman do Osman Pasha lãnh đạo tại Focsani, tiếp theo là chiến thắng của Nga tại Rymnik (hoặc "Rimnik") vào ngày 22 tháng 9, và đánh đuổi quân Ottoman ra xa khỏi khu vực gần sông Râmnicul Sărat. Suvorov được phong tước hiệu Bá tước Rymniksky sau trận chiến. Người Ottoman chịu nhiều tổn thất hơn nữa khi quân Áo dưới quyền chỉ huy của Tướng quân Ernst Gideon von Laudon đẩy lùi cuộc xâm lược của người Ottoman vào Croatia, trong khi quân Áo phản công chiếm Beograd. Một cuộc nổi dậy của người Hy Lạp càng làm cạn kiệt nỗ lực chiến tranh của Ottoman, dẫn đến một thỏa thuận ngừng bắn giữa Đế quốc Ottoman và Áo. Trong khi đó, quân Nga tiếp tục tiến quân khi Suvorov chiếm giữ pháo đài Ottoman được cho là "bất khả xâm phạm" mang tên Izmail trên lối vào sông Danube, vào tháng 12 năm 1790. Một thất bại cuối cùng của Ottoman tại Machin (9 tháng 7 năm 1791), cùng với những lo ngại của Nga về việc Phổ tham chiến, đã dẫn đến một hiệp định đình chiến được nhất trí vào ngày 31 tháng 7 năm 1791. Sau khi chiếm được pháo đài Izmail, Suvorov hành quân đến Constantinople (ngày nay là Istanbul), nơi người Nga hy vọng họ có thể thành lập một đế chế Cơ đốc giáo. Tuy nhiên, như Giáo sư Timothy C. Dowling đã nói, những cuộc tàn sát được thực hiện trong giai đoạn sau đó đã phần nào làm ô uế danh tiếng của Suvorov trong mắt nhiều người, và có những cáo buộc vào thời điểm đó rằng ông từng say rượu trong Cuộc vây hãm Ochakov. Những tin đồn dai dẳng về hành động của ông được lan truyền và lưu hành, và vào năm 1791, ông được chuyển đến Phần Lan. Hậu quả. Sau đó, Hiệp định Jassy được ký kết vào ngày 9 tháng 1 năm 1792, công nhận việc Nga sáp nhập Hãn quốc Krym vào năm 1783. Yedisan (Odessa và Ochakov) cũng được nhượng lại cho Nga, và sông Dniester trở thành biên giới của Nga tại châu Âu, trong khi biên giới châu Á của Nga—sông Kuban—không thay đổi. Mục tiêu chiến tranh của Ottoman nhằm giành lại Krym đã thất bại, và nếu không nhờ Cách mạng Pháp thì tình hình của Đế quốc Ottoman có thể tồi tệ hơn nhiều.
19,822,709
808250
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822709
Ligue 1 2023–24
Ligue 1 2023–24, còn được gọi là Ligue 1 Uber Eats vì lý do tài trợ, là mùa giải thứ 86 của Ligue 1, giải đấu bóng đá hàng đầu của Pháp. Do bốn câu lạc bộ xuống hạng Ligue 2 vào cuối mùa giải trong khi chỉ có hai câu lạc bộ từ Ligue 2 lên hạng nên số lượng câu lạc bộ giảm xuống chỉ còn 18 câu lạc bộ bắt đầu từ mùa giải 2023–24. Paris Saint-Germain đang là đương kim vô địch. Trận play-off trụ hạng. Mùa giải 2023–24 sẽ kết thúc bằng trận play-off trụ hạng giữa đội xếp thứ 16 tại Ligue 1 và đội thắng trong trận bán kết play-off Ligue 2 trong cuộc đối đầu hai lượt đi và về.
19,822,712
725478
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822712
Terbi(III) chloride
Terbi(III) chloride (công thức hóa học: TbCl3) là một hợp chất vô cơ. Ở trạng thái rắn TbCl3 có cấu trúc lớp giống YCl3. Terbi(III) chloride thường tạo thành hexahydrat. Điều chế. Dạng hexahydrat của terbi(III) chloride có thể thu được bằng phản ứng của terbi(III) oxide và acid chlorhydric: Nó cũng có thể thu được bằng phản ứng trực tiếp giữa các nguyên tố: Tính chất. Terbi(III) chloride là một loại bột màu trắng, có tính hút ẩm. Nó kết tinh dưới dạng trực thoi (giống plutoni(III) bromide) với nhóm không gian Cmcm (số 63). Nó có thể tạo phức Tb(gly)3Cl3·3H2O với glycin. Ứng dụng. Terbi(III) chloride được sử dụng trong ngành công nghiệp bán dẫn. Hexahydrat đóng vai trò quan trọng như một chất kích hoạt phosphor xanh trong các ống TV màu, được sử dụng trong các tia laser đặc biệt và như một dẫn xuất trong các thiết bị trạng thái rắn. An toàn. Terbi(III) chloride có thể gây sung huyết mống mắt. Các điều kiện/chất cần tránh là: nhiệt, acid và hơi acid.
19,822,731
479787
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822731
Trường Đại học Sư phạm
Trường Đại học Sư phạm có thể là:
19,822,732
479787
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822732
Trường Đại học Nông Lâm
Trường Đại học Nông Lâm có thể là:
19,822,734
728008
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822734
Bầu cử tổng thống Hoa Kỳ 1888
Cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ năm 1888 là cuộc bầu cử tổng thống bốn năm một lần lần thứ 26, được tổ chức vào Thứ Ba, ngày 6 tháng 11 năm 1888. Ứng cử viên của Đảng Cộng hòa Benjamin Harrison, cựu Thượng nghị sĩ từ Indiana, đã đánh bại Tổng thống đương nhiệm của Đảng Dân chủ Grover Cleveland từ New York. Đây là cuộc bầu cử tổng thống thứ 3 trong số 5 cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ (và là cuộc bầu cử thứ 2 trong vòng 12 năm) mà người thắng cử thua phiếu phổ thông trên toàn quốc, điều này sẽ không xảy ra một lần nữa cho đến năm 2000. Cleveland, tổng thống đầu tiên của Đảng Dân chủ kể từ Nội chiến Hoa Kỳ, được nhất trí tái đề cử tại Đại hội toàn quốc Đảng Dân chủ năm 1888. Harrison, cháu trai của cố Tổng thống William Henry Harrison, nổi lên cho vị trí ứng cử viên của Đảng Cộng hòa trong lần bỏ phiếu thứ 8 của Đại hội toàn quốc Đảng Cộng hòa năm 1888. Ông đã đánh bại các nhà lãnh đạo đảng nổi tiếng khác như Thượng nghị sĩ John Sherman và cựu Thống đốc Michigan Russell Alger. Đây là cuộc bầu cử đầu tiên kể từ năm 1840 mà Tổng thống đương nhiệm thất cử. Chính sách thuế quan là vấn đề chính trong suốt cuộc bầu cử, trong khi Cleveland đã đề xuất giảm thuế đáng kể vì cho rằng thuế cao là không công bằng đối với người tiêu dùng thì Harrison lại đứng về phía các nhà máy công nghiệp và công nhân khi muốn giữ mức thuế cao. Sự phản đối của Cleveland đối với lương hưu cho cựu chiến binh trong Nội chiến cũng như tình trạng lạm phát tiền tệ đã làm phật lòng các binh và nông dân. Ngược lại, ông nhận được sự ủng hộ lớn từ các bang miền Nam và các bang vùng biên, đồng thời thu hút các cựu thành viên của phái Mugwumps trong Đảng Cộng hòa. Cleveland dù thắng phiếu phổ thông, nhưng Harrison đã thắng cử với đa số phiếu Đại cử tri đoàn, đánh dấu lần duy nhất một Tổng thống đương nhiệm của 1 trong 2 đảng lớn thất cử trong nỗ lực tái tranh cử mặc dù giành được phiếu phổ thông. Harrison đã càn quét gần như toàn bộ các bang miền Bắc và Trung Tây, bao gồm cả các bang dao động như New York và Indiana. Đây là lần đầu tiên đảng Dân chủ giành được phiếu phổ thông liên tiếp kể từ năm 1856. Đề cử. Đề cử của Đảng Cộng hòa. Các ứng cử viên của Đảng Cộng hòa bao gồm cựu Thượng nghị sĩ Benjamin Harrison từ Indiana; Thượng nghị sĩ John Sherman từ Ohio; Russell A. Alger, cựu thống đốc bang Michigan; Walter Q. Gresham từ Indiana, cựu Bộ trưởng Ngân khố; Thượng nghị sĩ William B. Allison từ Iowa; và Chauncey Depew từ New York, Chủ tịch Đường sắt Trung tâm New York. Vào thời điểm các đảng viên Cộng hòa họp mặt ở Chicago từ ngày 19 đến 25 tháng 6 năm 1888, người dẫn đầu lúc đó James G. Blaine đã rút lui vì ông tin rằng chỉ có một thỏa hiệp mới tạo ra được một ứng cử viên Đảng Cộng hòa đủ mạnh để đánh bại Tổng thống đương nhiệm Cleveland. Blaine nhận ra rằng ông sẽ khó được đề cử nếu không có những cuộc tranh đấu căng thẳng. Sau khi rút lui, Blaine ủng hộ cả Benjamin Harrison và John Sherman. Harrison được đề cử trong lần bỏ phiếu thứ 8. Đảng Cộng hòa đã chọn Harrison vì quá khứ tham chiến của ông, sự nổi tiếng của ông ấy trong giới các cựu chiến binh, khả năng bày tỏ những cam kết của Đảng Cộng hòa và thực tế là ông ấy sống ở bang Indiana, một bang dao động quan trọng. Đảng Cộng hòa hy vọng sẽ giành được 15 phiếu đại cử tri từ Indiana, nơi Cleveland thắng trong cuộc bầu cử Tổng thống trước đó. Levi P. Morton, cựu Hạ nghị sĩ và đại sứ từ Thành phố New York, được đề cử làm Phó Tổng thống thay vì William Walter Phelps, đối thủ chính của ông. Đề cử của Đảng Dân chủ. Các ứng cử viên của Đảng Dân chủ:Đại hội toàn quốc của đảng Dân chủ được tổ chức tại St. Louis, Missouri, từ ngày 5 đến 7 tháng 6 năm 1888, diễn ra thành công. Tổng thống đương nhiệm Cleveland đã được nhất trí tái đề cử mà không qua bất kỳ lần bỏ phiếu nào. Đây là lần đầu tiên một Tổng thống đương nhiệm của Đảng Dân chủ được tái đề cử kể từ Martin Van Buren vào năm 1840. Sau khi Cleveland được tái đề cử, Đảng Dân chủ phải chọn người thay thế cho Thomas A. Hendricks. Hendricks đã tranh cử không thành công để được đề cử làm Phó Tổng thống năm 1876, nhưng đã giành được chức vụ này khi ông tái tranh cử với Cleveland vào năm 1884 . Tuy nhiên, Hendricks chỉ giữ chức vụ Phó Tổng thống trong vỏn vẹn 8 tháng cho đến khi ông qua đời vào ngày 25 tháng 11 năm 1885. Cựu Thượng nghị sĩ Allen G. Thurman từ Ohio đã được đề cử làm Phó Tổng thống thay vì Isaac P. Gray, đối thủ chính của ông và John C. Black, một đối thủ khác. Gray không được đề cử chủ yếu vì những người phản đối ông đã liên tục khui ra những hành động khi ông còn là đảng viên Đảng Cộng hòa. Cương lĩnh của Đảng Dân chủ phần lớn chỉ giới hạn trong việc bảo vệ chính quyền Cleveland, ủng hộ việc giảm thuế cũng như kết nạp thêm các lãnh thổ ở miền Tây. Đề cử của Đảng Cấm rượu. Đại hội toàn quốc của Đảng Cấm rượu được tổ chức tại Hội trường Tomlinson ở Indianapolis, Indiana. Có 1.029 đại biểu từ 35 bang. Clinton B. Fisk đã được nhất trí đề cử làm Tổng thống. John A. Brooks được đề cử làm Phó Tổng thống. Đề cử của Đảng Công đoàn Lao động. Đại hội toàn quốc của Đảng Công đoàn Lao động được tổ chức tại Cincinnati, Ohio. Đảng Công đoàn Lao động được thành lập vào năm 1887 tại Cincinnati. Đại hội đã nhất trí đề cử Alson Streeter làm Tổng thống. Ông ấy được ủng hộ nhiều đến mức giành được đề cử mà không cần bỏ phiếu. Samuel Evans được đề cử làm Phó Tổng thống nhưng đã từ chối ứng cử. Charles E. Cunningham sau đó được chọn làm ứng cử viên Phó Tổng thống. Đảng Công đoàn Lao động đã nhận được gần 150.000 phiếu phổ thông, nhưng không nhận được sự ủng hộ rộng rãi trên toàn quốc. Tuy nhiên, đảng đã thắng được 2 quận. Đề cử của Đảng Lao động Thống nhất. Đại hội của Đảng Lao động Thống nhất đã đề cử Robert H. Cowdrey làm Tổng thống trong lần bỏ phiếu đầu tiên. WHT Wakefield của Kansas đã được đề cử làm Phó Tổng thống thay cho Victor H. Wilder từ New York sau lần bỏ phiếu với tỷ số 50–12. Đề cử của Đảng Đồng bạc xanh. Đảng Đồng bạc xanh đã dần suy tàn trong thời gian chính quyền Cleveland. Trong cuộc bầu cử năm 1884, đảng này đã không giành được bất kỳ ghế nào trong Hạ viện, mặc dù họ đã giành được 1 ghế trong liên minh cùng với Đảng Dân chủ (James B. Weaver) và một số ghế khác bằng cách ủng hộ các ứng cử viên Đảng Dân chủ. Trong cuộc bầu cử năm 1886, chỉ có 20 ứng cử viên Đồng bạc xanh tham gia tranh cử vào Hạ viện, cùng 6 người khác tranh cử qua các liên minh với Đảng Dân chủ. Trong đó, Weaver là người duy nhất thắng cử. Phần lớn tin tức về Đảng Đồng bạc xanh vào đầu năm 1888 là ở Michigan, nơi đảng này vẫn hoạt động. Vào đầu năm 1888, vẫn không rõ liệu Đảng Đồng bạc xanh có tổ chức một đại hội toàn quốc hay không. Sau cùng, Đại hội toàn quốc của Đảng Đồng bạc xanh được tổ chức tại Cincinnati vào ngày 16 tháng 5 năm 1888. Rất ít đại biểu tham dự nên không có bất kỳ hoạt động nào trong suốt đại hội. Vào ngày 16 tháng 8 năm 1888, George O. Jones, chủ tịch ủy ban toàn quốc của đảng, triệu tập kỳ họp thứ 2 của đại hội toàn quốc. Kỳ họp thứ 2 của đại hội toàn quốc họp tại Cincinnati vào ngày 12 tháng 9 năm 1888. Chỉ có 7 đại biểu tham dự. Chủ tịch Jones chỉ đưa ra một bài phát biểu chỉ trích 2 đảng lớn và các đại biểu không đề cử bất kỳ ai tranh cử. Sau thất bại của đại hội, Đảng Đồng bạc xanh sụp đổ. Đề cử của Đảng Hoa Kỳ. Đảng Hoa Kỳ đã tổ chức Đại hội toàn quốc cuối cùng tại Hội trường Grand Army ở Washington, DC. Đây là một đảng Chống Hội Tam điểm hoạt động dưới nhiều tên khác nhau ở các bang miền Bắc. Đại hội có 126 đại biểu; trong số đó có 65 người từ New York và 15 người từ California. Các đại biểu từ các bang khác chỉ tham gia đại hội khi có vẻ như New York và California có ý định bỏ phiếu cùng nhau về mọi vấn đề và kiểm soát đại hội. Vào thời điểm cuộc bầu cử tổng thống bắt đầu, chỉ có 64 đại biểu có mặt. Hội nghị đã đề cử James L. Curtis từ New York làm Tổng thống và James R. Greer từ Tennessee làm Phó Tổng thống. Greer từ chối tranh cử, vì vậy, Peter D. Wigginton từ California đã được chọn làm người thay thế ông. Đề cử của Đảng Quyền Bình đẳng. Đại hội toàn quốc của Đảng Quyền Bình đẳng được tổ chức tại Des Moines, Iowa. Tại đại hội, các lá phiếu qua thư đã được kiểm. Các đại biểu đã bỏ 310 trong số 350 phiếu bầu của họ cho liên danh sau: Belva A. Lockwood cho vị trí Tổng thống và Alfred H. Love cho vị trí Phó Tổng thống. Love đã từ chối ứng cử và được thay thế bằng Charles S. Welles từ New York. Đề cử của Đảng Cải cách Công nghiệp. Đại hội toàn quốc của Đảng Cải cách Công nghiệp được triệu tập tại Hội trường Grand Army, Washington, DC. Có 49 đại biểu có mặt. Albert Redstone đã giành được sự ủng hộ của một số nhà lãnh đạo của Đảng Đồng bạc xanh đang chuẩn bị sụp đổ. Ông ấy nói với "Montgomery Advertiser" rằng ông ấy hy vọng sẽ thắng một số tiểu bang, bao gồm Alabama, New York, North Carolina, Arkansas, Pennsylvania, Illinois, Iowa và Missouri. Tổng tuyển cử. Chiến dịch. Vấn đề. Cleveland đã tạo ra vấn đề chính trong suốt cuộc bầu cử khi ông đề xuất giảm mạnh thuế quan trong Thông điệp Liên bang vào tháng 12 năm 1887. Trong khi Cleveland cho rằng mức thuế cao là không cần thiết thì Đảng Cộng hòa lại cho rằng mức thuế cao sẽ bảo vệ ngành công nghiệp Mỹ khỏi sự cạnh tranh của nước ngoài và đảm bảo mức lương cao, lợi nhuận cao và tăng trưởng kinh tế cao. Tranh cãi giữa những người theo chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch và thương nhân tự do về mức thuế là một tranh luận không còn mới, bắt nguồn từ Biểu thuế năm 1816. Trên thực tế, thuế quan không liên quan tới các sản phẩm công nghiệp, vì Hoa Kỳ là nhà sản xuất chi phí thấp trong hầu hết các lĩnh vực (ngoại trừ len) và giá của chúng không thể đắt hơn hàng từ châu Âu. Tuy nhiên, vấn đề thuế quan đã trở thành mối bận tâm hàng đầu cho cả 2 đảng. Bên cạnh các khía cạnh kinh tế, vấn đề thuế quan cũng có liên quan một chút tới khía cạnh dân tộc. Vào thời điểm đó, chính sách thương mại tự do được Đế quốc Anh thúc đẩy mạnh mẽ nhất, và do đó, bất kỳ ứng cử viên nào ủng hộ thương mại tự do đều bị gán là thân Anh và chống Ireland, điều này sẽ làm phật lòng cử tri người Mỹ gốc Ireland. Cleveland, dù ủng hộ thương mại tự do, đã vô hiệu hóa mối đe dọa bằng cách gia tăng trừng phạt lên Canada (quốc gia tự trị thuộc Đế quốc Anh) vì tranh chấp về quyền đánh bắt cá. Harrison được các nhà hoạt động trong đảng tài trợ nhiều tiền và tiến hành một chiến dịch rất sôi nổi khi có nhiều bài phát biểu "từ hiên nhà" (thời điểm đó, các ứng cử viên hầu như không ra mặt vận động tranh cử, mà chỉ đưa ra các bài phát biểu từ nhà của mình trước báo chí) ở Indianapolis. Cleveland cũng tuân thủ truyền thống này và còn cấm Nội các của ông vận động tranh cử, để ứng cử viên Phó Tổng thống 75 tuổi Thurman làm mũi nhọn trong chiến dịch tranh cử của ông. "Khối Năm người". William Wade Dudley (1842–1909), một luật sư ở Indianapolis, là một nhà vận động không mệt mỏi và là công tố viên nhắm vào các gian lận bầu cử của đảng Dân chủ. Năm 1888, Benjamin Harrison bổ nhiệm Dudley làm Thủ quỹ Ủy ban toàn quốc Đảng Cộng hòa. Chiến dịch diễn ra khốc liệt nhất trong nhiều thập kỷ, thậm chí Indiana còn chia đều phiếu cho 2 ứng cử viên. Mặc dù Ủy ban toàn quốc không có nhiệm vụ can thiệp vào chính trị của bang, Dudley đã viết một lá thư gửi các chủ tịch quận của Indiana, yêu cầu họ "chia các công nhân thành những khối 5 người, và giao tiền cho một người đáng tin cậy để 'phụ trách' các khối 5 người này, và những người này phải chịu trách nhiệm rằng các công nhân không được bỏ phiếu cho bất kỳ ai ngoài Harrison." Dudley còn hứa sẽ chu cấp tiền đầy đủ. Tuy nhiên, ý định của ông đã phản tác dụng khi các đảng viên Đảng Dân chủ phát hiện ra bức thư và in ấn hàng trăm nghìn bản trên toàn quốc trong những ngày cuối cùng của chiến dịch. Với danh tiếng không mấy tốt đẹp của Dudley, rất ít người tin vào lời hứa của ông ta. Có khoảng vài nghìn công nhân ở Indiana—những người sẽ bán phiếu bầu của họ với giá 2 đô la. Tuy nhiên, họ luôn chia phiếu theo tỷ lệ 50-50 (tức 5.000-5.000 đô la) và rõ ràng không tác động rõ ràng đến cuộc bầu cử. Ý định này đã làm nhiều người nghĩ Tướng Harrison ngoan đạo đang cố gắng "mua" cuộc bầu cử, châm ngòi cho phong trào toàn quốc ủng hộ thay thế các lá phiếu do các đảng in và phân phát bằng các lá phiếu kín. Bức thư Murchison. Một đảng viên Đảng Cộng hòa ở California tên là George Osgoodby đã viết một lá thư cho Ngài Lionel Sackville-West, đại sứ Anh tại Hoa Kỳ, dưới tên giả là "Charles F. Murchison", tự mô tả mình là một người Anh trước đây, hiện là công dân của California và hỏi Sackville nên bỏ phiếu cho ứng cử viên nào trong cuộc bầu cử tổng thống sắp tới. Ngài Lionel đã đáp lại "bức thư Murchison" một cách thiếu thận trọng, gợi ý rằng Cleveland có lẽ là người tốt nhất theo quan điểm của người Anh. Đảng Cộng hòa đã công bố lá thư này chỉ 2 tuần trước cuộc bầu cử, tác động trực tiếp đến các cử tri người Mỹ gốc Ireland, giống hệt như sai lầm "Rum, Romanism, and Rebellion" ["Rượu rum, chủ nghĩa La Mã, và Nội chiến"] của bản thân nó trong cuộc bầu cử trước; sau cùng đã làm Cleveland thua New York và Indiana (trực tiếp làm ông thất cử). Sackville-West sau đó bị cách chức đại sứ Anh. Kết quả. Cuộc bầu cử tập trung vào các bang dao động như New York, New Jersey, Connecticut và Indiana, quê hương của Harrison. Harrison và Cleveland mỗi người thắng 2 trong số 4 bang này, trong đó Harrison giành chiến thắng nhờ những gian lận khét tiếng ở New York và Indiana. Đảng Cộng hòa giành chiến thắng tại 26 trong 44 thành phố lớn nhất bên ngoài miền Nam Hoa Kỳ. Nếu Cleveland giành chiến thắng tại New York, bang quê hương của mình, thì ông ấy sẽ thắng phiếu đại cử tri với tỷ lệ số phiếu đại cử tri là 204-197 (trong khi chỉ cần có 201 phiếu đại cử tri để giành chiến thắng). Tuy nhiền điều này không xảy ra và Cleveland trở thành ứng cử viên thứ 3 trong số 5 ứng cử viên giành được số nhiều hoặc đa số tổng số phiếu phổ thông nhưng thất cử (Andrew Jackson năm 1824, Samuel J. Tilden năm 1876, Al Gore năm 2000 và Hillary Clinton năm 2016 ). Cleveland đã vượt qua Harrison trong số phiếu phổ thông với cách biệt hơn 90.000 phiếu bầu (0,8%), mặc dù cách biệt này chỉ có được nhờ việc tước quyền bầu cử quy mô lớn và đàn áp hàng trăm nghìn cử tri da đen ở miền Nam.. Harrison đã thắng phiếu Đại cử tri đoàn với cách biệt 233-168, phần lớn nhờ chiến thắng với cách biệt 1,09% ở New York, quê hương của Cleveland. 4 tiểu bang có người chiến thắng giành được ít hơn 1% số phiếu phổ thông. Cleveland đã kiếm được 24 phiếu đại cử tri từ các bang mà ông có cách biệt ít hơn 1%: Connecticut, Virginia và Tây Virginia. Harrison đã kiếm được 15 phiếu đại cử tri từ 1 bang mà ông có cách biệt ít hơn 1%: Indiana. Harrison đã thắng New York (có 36 phiếu đại cử tri) với cách biệt lệ 1,09%. Bất chấp cách biệt chênh lệch ở một số bang, chỉ có 2 bang đổi đảng thắng so với cuộc bầu cử tổng thống đầu tiên của Cleveland (New York và Indiana). Trong số 2.450 quận/thành phố độc lập, Cleveland dẫn đầu 1.290 (52,65%) trong khi Harrison dẫn đầu 1.157 (47,22%). 2 quận (0,08%) do Streeter thắng trong khi 1 quận (0,04%) ở California chia đều giữa Cleveland và Harrison. Khi rời Nhà Trắng vào tháng 3 năm 1889, Đệ nhất Phu nhân Frances Cleveland được cho là đã yêu cầu các nhân viên Nhà Trắng chăm sóc tòa nhà cẩn thận vì gia đình Cleveland sẽ trở lại sau 4 năm nữa. Lịch sử đã chứng minh điều này đúng khi Cleveland thắng cử vào năm 1892, đưa nhà Cleveland trở lại Nhà Trắng, Grover Cleveland trở thành Tổng thống duy nhất có 2 nhiệm kỳ không liên tiếp trong khi vợ ông, Frances, trở thành Đẹ nhất Phu nhân duy nhất có 2 nhiệm kỳ liên tiếp. Đây là lần cuối cùng mà đảng Cộng hòa giành được Colorado và Nevada cho đến năm 1904. Đây cũng là cuộc bầu cử cuối cùng cho đến năm 1968, Quận Coös ở New Hampshire không bầu cho ứng cử viên giành chiến thắng. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử Hoa Kỳ, một đảng thua cuộc trong nỗ lực tái tranh cử sau chỉ 1 nhiệm kỳ 4 năm; điều này sẽ xảy ra một lần nữa vào năm 1892, nhưng không xảy ra đối với Đảng Dân chủ cho đến năm 1980. Kết quả theo tiểu bang. Nguồn: Dữ liệu từ Walter Dean Burnham, "Presidential ballots, 1836–1892" (Johns Hopkins University Press, 1955) pp 247–57. Tiểu bang sít sao. Các bang có cách biệt chiến thắng dưới 1% (39 phiếu đại cử tri): Các bang có cách biệt chiến thắng giữa 1% và 5% (150 phiếu đại cử tri): Các bang có cách biệt chiến thắng giữa 5% và 10% (93 phiếu đại cử tri): Trong văn hóa đại chúng. Năm 1968, Công ty Michael P. Antoine sản xuất bộ phim ca nhạc của Công ty Walt Disney "The One and Only, Genuine, Original Family Band" xoay quanh cuộc bầu cử năm 1888 và việc kết nạp và chia nhỏ Lãnh thổ Dakota thành các bang (vốn là vấn đề chính của các cuộc bầu cử).
19,822,740
529523
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822740
Charlotte Amalie của Đan Mạch
Charlotte Amalie của Đan Mạch và Na Uy (6 tháng 10 năm 1706 – 28 tháng 10 năm 1782) là một Vương nữ Đan Mạch, con gái của Frederik IV của Đan Mạch và Luise xứ Mecklenburg-Güstrow. Tiểu sử. Charlotte Amalie không bao giờ kết hôn. Năm 1725, Charlotte Amalie được đưa vào danh sách 99 vương nữ được coi là phù hợp để kết hôn với Louis XV của Pháp (điều này yêu cầu Vương nữ phải cải sang Công giáo), nhưng Charlotte Amalie đã bị loại trừ vì Đan Mạch-Na Uy là kẻ thù không đội trời chung của Thụy Điển, đồng minh truyền thống của Pháp, và rằng một cuộc hôn nhân như vậy có khả năng làm xáo trộn liên minh Pháp-Thụy Điển. Vào đầu những năm 1730, anh trai của Charlotte Amalie là Christian VI của Đan Mạch đã cố gắng sắp xếp một cuộc hôn nhân giữa Charlotte Amalie và Frederick của Đại Anh, Thân vương xứ Wales nhưng không thành công. Theo truyền thống dành cho các vương nữ chưa chồng, Charlotte Amalie sống với mẹ là Luise xứ Mecklenburg-Güstrow cho đến khi Thái hậu qua đời, sau đó ở với mẹ kế là Anna Sophie Reventlow. Trái ngược với anh trai và chị dâu, vương nữ có mối quan hệ tốt với mẹ kế của mình, Charlotte Amalie cố gắng phòng tránh thái độ thù địch tồi tệ hướng đến mẹ kế tại triều đình. Charlotte Amalie bị tách khỏi Anna Sophie khi anh trai lên ngôi năm 1730. Sau đó, vương nữ sống tại triều đình vào mùa đông và tại Cung điện Charlottenlund vào mùa hè với triều đình của riêng mình. Charlotte Amalie được những người cùng thời mô tả là một người đáng yêu với khả năng giữ hòa khí: vương nữ có mối quan hệ tốt với cha và mẹ kế, đồng thời vẫn có mối quan hệ tốt với anh trai, người căm ghét chính cha mình và mẹ kế. Vương nữ không có ảnh hưởng gì đến các vấn đề chính sự và sống một cuộc sống yên bình tại triều đình trong suốt cuộc đời. Vào ngày 8 tháng 4 năm 1771, Charlotte Amalie được lệnh rời khỏi triều đình. Vương nữ đã dành phần đời còn lại mà sống với góa phụ của cháu trai gọi cô của mình là Thái hậu Juliane Marie. Điều này có nghĩa là Charlotte Amalie tiếp tục dành phần lớn thời gian tại triều đình khi có mặt thái hậu Juliane Marie: trên thực tế Juliane Marie trở thành nhiếp chính vào năm 1772. Vì thích những bộ tóc giả màu đen hơn nên vương nữ đã ra lệnh cho cận thần của mình đội chúng, và tòa án của cô ấy được gọi là "Triều đình của những bộ tóc giả màu đen". Sau năm 1778, Vương nữ không còn xuất hiện trước công chúng nữa vì bị lão suy. Charlotte Amalie được biết đến là ân nhân của nhà văn Charlotte Baden, cháu gái của một trong những thị tùng của vương nữ là Anna Susanne von der Osten. Charlotte Baden được nuôi dưỡng tại triều đình của Charlotte Amalie và được vương nữ trợ cấp va cũng như được cho tiếp nhận một nền giáo dục tốt. Trong di chúc của mình từ năm 1773, Charlotte Amalie đã thành lập quỹ "Prinsesse CAs stiftelse" để tài trợ cho việc nuôi dạy các thiếu nữ nghèo thuộc mọi tầng lớp khác nhau. Di sản. Cung điện Charlottenlund, nơi Charlotte Amalie dành thời gian ở đây vào mùa hè, được xây dựng và đặt theo tên Vương nữ vào năm 1731–1733.
19,822,747
885899
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822747
Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Séc
Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Séc (, ČSR) là một nước cộng hòa trong Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Tiệp Khắc. Tên này được sử dụng từ ngày 1 tháng 1 năm 1969 đến tháng 11 năm 1989, khi nhà nước Tiệp Khắc đơn nhất trước đó chuyển thành liên bang. Từ năm 1990 đến năm 1992, Cộng hòa Séc (, ČR) tồn tại như một chủ thể liên bang bên trong Cộng hòa Liên bang Séc và Slovak, sau này trở thành Cộng hòa Séc độc lập. Lịch sử. Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Tiệp Khắc (1969–89). Sau cuộc chiếm đóng Tiệp Khắc năm 1968, các cải cách tự do hóa bị dừng lại và hoàn nguyên. Ngoại lệ duy nhất là liên bang hóa đất nước. Nhà nước tập trung Tiệp Khắc trước đó được chia thành hai phần: "Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Séc" và "Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Slovak" theo Luật Hiến pháp Liên bang ngày 28 tháng 10 năm 1968, được ban hành vào năm 1968, có hiệu lực vào ngày 1 tháng 1 năm 1969. Các nghị viện quốc gia mới (Hội đồng Quốc gia Séc và Hội đồng Quốc gia Slovakia) được thành lập và nghị viện truyền thống của Tiệp Khắc được đổi tên thành "Hội đồng Liên bang" và được chia thành hai viện: "Viện Nhân dân" (, ) và "Viện Dân tộc" (, ). Các quy tắc bỏ phiếu rất phức tạp đã được áp dụng. Cộng hòa Liên bang Séc và Slovak (1990–92). Sau Cách mạng Nhung đặt dấu chấm hết cho chủ nghĩa xã hội ở Tiệp Khắc, từ "xã hội chủ nghĩa" đã bị loại bỏ khỏi tên của hai nước cộng hòa. Do đó, Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Séc được đổi tên thành "Cộng hòa Séc" (dù vẫn là một phần của Cộng hòa Liên bang Séc và Slovak). Hệ thống bầu cử nghị viện phức tạp (trên thực tế có năm cơ quan khác nhau, mỗi cơ quan có quyền phủ quyết) được duy trì sau sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội, làm phức tạp và trì hoãn các quyết định chính trị trong những thay đổi căn bản của nền kinh tế. Sau đó, vào năm 1992, Cộng hòa Séc trở thành nhà nước độc lập (xem Giải thể Tiệp Khắc).
19,822,750
912316
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822750
Scott Wootton
Scott James Wootton (sinh ngày 12 tháng 9 năm 1991) là một cầu thủ bóng đá người Anh thi đấu ở vị trí hậu vệ cho câu lạc bộ Wellington Phoenix tại A-League.
19,822,751
780814
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822751
Ryan Tunnicliffe
Ryan Tunnicliffe (sinh ngày 30 tháng 12 năm 1992) là một cầu thủ bóng đá người Anh thi đấu ở vị trí tiền vệ trung tâm hoặc tiền vệ phải.
19,822,754
885899
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822754
Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Slovak
Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Slovak (, SSR) từ năm 1969 đến 1990 là một nước cộng hòa trong Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Tiệp Khắc, khi nhà nước Tiệp Khắc đơn nhất trước đó chuyển thành liên bang. Tên này được sử dụng từ ngày 1 tháng 1 năm 1969 cho đến tháng 11 năm 1989. Cộng hòa Slovak (, SR) là một nước cộng hòa trong giai đoạn 1990-1992 của Cộng hòa Liên bang Séc và Slovak, nay là Slovakia độc lập. Lịch sử. Sau cuộc chiếm đóng Tiệp Khắc vào năm 1968, các cải cách tự do hóa bị tạm dừng và sau đó bị đảo ngược. Ngoại lệ đáng kể duy nhất là liên bang hóa đất nước. Nhà nước tập trung cũ của Tiệp Khắc được chia thành hai: "Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Séc" và "Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Slovakia" theo Luật Hiến pháp Liên bang ngày 28 tháng 10 năm 1968, có hiệu lực vào ngày 1 tháng 1 năm 1969. Các nghị viện quốc gia mới (Hội đồng Quốc gia Séc và Hội đồng Quốc gia Slovakia) được thành lập và nghị viện cũ của Tiệp Khắc được đổi tên thành "Hội đồng Liên bang" và được chia thành hai viện: "Viện Nhân dân" (, ) và "Viện Dân tộc" (, ). Các quy tắc bỏ phiếu rất phức tạp đã được áp dụng. Liên bang hóa mang tính khái niệm – tất cả quyền lực thực sự được nắm giữ bởi Đảng Cộng sản. Số lượng "nghị viện" tăng lên đã thuận tiện cung cấp nhiều vị trí hơn cho các đảng viên, mặc dù vai trò của họ chỉ mang tính tượng trưng. Sau sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Tiệp Khắc, từ "xã hội chủ nghĩa" bị loại bỏ trong tên của hai nước cộng hòa, tức là Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Slovakia được đổi tên thành Cộng hòa Slovak (vẫn là một phần của Tiệp Khắc, kể từ tháng 4 năm 1990 là của Cộng hòa Liên bang Séc và Slovak). Hệ thống bỏ phiếu nghị viện phức tạp (trên thực tế có 5 cơ quan khác nhau, mỗi cơ quan có quyền phủ quyết) được duy trì sau sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội, làm phức tạp và trì hoãn các quyết định chính trị trong những thay đổi căn bản của nền kinh tế. Vào tháng 11 năm 1992, nghị viện liên bang bỏ phiếu giải thể đất nước chính thức vào ngày 31 tháng 12 năm 1992. Kể từ ngày 1 tháng 1 năm 1993, Cộng hòa Slovak trở thành một quốc gia độc lập có tên Slovakia.
19,822,760
872953
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822760
Trầm cảm dai dẳng
Rối loạn trầm cảm dai dẳng là một loại bệnh mãn tính, khi bản thân mất hứng thú với các hoạt động thường ngày, chán nản, buồn bã, lòng tự trọng thấp... Những cảm xúc trên có thể kéo dài và gây ảnh hưởng đến cuộc sống như mối quan hệ, kết quả học tập, công việc, gia đình... Người mắc rối loạn trầm cảm dai dẳng thường khó tìm thấy cảm giác lạc quan ngay cả khi bản thân vào có tích cực nhất. Họ thường được mọi người mô tả là người có tính cách ảm đạm, phàn nàn hoặc buồn chán. Mặc dù rối loạn trầm cảm dai dẳng không nguy hiểm như trầm cảm chính, nhưng tâm trạng chán nản hiện tại của bản thân có thể từ mức độ nhẹ, trung bình đến nặng. Theo Cẩm nang Chẩn đoán và Thống kê Rối loạn tâm thần, rối loạn trầm cảm dai dẳng là một dạng trầm cảm mãn tính nghiêm trọng, kéo dài ít nhất 2 năm ở độ tuổi người trưởng thành hoặc 1 năm ở độ tuổi trẻ em và thanh thiếu niên. Theo Cẩm nang Chẩn đoán và Thống kê Rối loạn Tâm thần, Phiên bản Thứ năm"," rối loạn trầm cảm dai dẳng (PDD), bao gồm cả rối loạn trầm cảm nặng mãn tính và rối loạn loạn khí sắc trước đó. Lý do cho sự thay đổi là không có bằng chứng nào về sự khác biệt có ý nghĩa giữa hai tình trạng này. Dấu hiệu và triệu chứng. Các đặc điểm của chứng rối loạn trầm cảm dai dẳng bao gồm một giai đoạn tâm trạng chán nản kéo dài kết hợp với ít nhất hai triệu chứng khác có thể bao gồm mất ngủ hoặc chứng mất ngủ, mệt mỏi hoặc thiếu năng lượng, thay đổi trong hành vi ăn uống (ăn quá ít hoặc quá nhiều), lòng tự trọng thấp và cảm giác vô vọng. Khả năng tập trung kém và khó đưa ra quyết định cũng được coi là những triệu chứng khác có thể xảy ra. Khó chịu là một trong những triệu chứng phổ biến hơn ở trẻ em và thanh thiếu niên. Rối loạn trầm cảm dai dẳng ở mức độ nhẹ có thể dẫn đến việc mọi người tránh xa khỏi căng thẳng và né tránh các cơ hội có khả năng thất bại. Trong những trường hợp nặng hơn, người bệnh có thể rút lui khỏi các hoạt động hàng ngày. Họ thường sẽ ít tìm thấy niềm vui trong các hoạt động và trò tiêu khiển thông thường. Chẩn đoán chứng rối loạn trầm cảm dai dẳng rất khó khăn do tính chất của các triệu chứng và bệnh nhân thường có thể che giấu chúng, khiến người khác khó phát hiện ra. Ngoài ra, chứng rối loạn trầm cảm dai dẳng thường xảy ra cùng lúc với các rối loạn tâm lý khác, điều này làm tăng thêm mức độ phức tạp trong việc cố xác định sự hiện diện của chứng rối loạn trầm cảm dai dẳng, đặc biệt là do các triệu chứng rối loạn thường có sự chồng chéo lên nhau. Hành vi tự sát cũng là một vấn đề đặc biệt nguy hiểm với những người mắc rối loạn trầm cảm dai dẳng. Điều quan trọng là phải tìm kiếm các dấu hiệu của trầm cảm nặng, rối loạn hoảng sợ, rối loạn lo âu tổng quát, rối loạn sử dụng rượu và chất gây nghiện và rối loạn nhân cách. Nguyên nhân. Không có nguyên nhân duy nhất và rõ ràng gây ra chứng rối loạn trầm cảm dai dẳng, nhưng nó có thể liên quan đến các yếu tố di truyền, sinh học và môi trường. Căng thẳng, cô lập xã hội và thiếu sự hỗ trợ có thể góp phần vào sự phát triển của chứng rối loạn. Chứng rối loạn trầm cảm dai dẳng thường xảy ra đồng thời với các bệnh tâm thần hoặc thể chất khác, chẳng hạn như rối loạn lo âu, lạm dụng chất kích thích và rối loạn nhân cách. Các đợt trầm cảm nặng có thể xảy ra trước hoặc trong thời gian bị rối loạn trầm cảm dai dẳng - còn gọi là trầm cảm đúp. Chuẩn đoán và chữa trị. Theo Cẩm nang Chẩn đoán và Thống kê Rối loạn Tâm thần IV (DSM-IV), do Hiệp hội Tâm thần Hoa Kỳ xuất bản, mô tả đặc điểm của chứng rối loạn trầm cảm dai dẳng: "Triệu chứng cơ bản liên quan đến việc cá nhân cảm thấy chán nản trong phần lớn các ngày và các phần trong ngày, trong ít nhất hai năm. Ngoài ra: thiếu năng lượng, rối loạn giấc ngủ hoặc thèm ăn và lòng tự trọng thấp cũng là các triệu chứng thường gặp." Những người mắc bệnh này thường trải qua chứng rối loạn trầm cảm dai dẳng trong nhiều năm trước khi được chẩn đoán. Mọi người xung quanh thường mô tả họ bằng những từ tương tự như "chỉ là một người ủ rũ", khiến bệnh nhân có xu hướng che giấu bệnh của mình. Sau đây là các tiêu chí chẩn đoán: Ở trẻ em và thanh thiếu niên, tâm trạng có thể cáu kỉnh và thời gian kéo dài ít nhất là một năm, khác với hai năm cần thiết để chẩn đoán ở người lớn. Người bệnh khởi phát sớm (được chẩn đoán trước 21 tuổi) có xu hướng tái phát thường xuyên hơn, có khả năng nhập viện tâm thần và đối mặt nhiều tình trạng xảy ra đồng thời hơn. Đối với những người trẻ tuổi mắc chứng loạn khí sắc, có nhiều khả năng xuất hiện những bất thường về tính cách và các triệu chứng có thể là mãn tính. Tuy nhiên, ở những người bệnh lớn tuổi, các triệu chứng tâm lý thường có liên quan đến các tình trạng y tế và/hoặc các sự kiện mất mát, căng thẳng trong cuộc sống. Rối loạn khí sắc có thể được đối chiếu với rối loạn trầm cảm chính bằng cách đánh giá bản chất cấp tính của các triệu chứng. Chứng rối loạn trầm cảm dai dẳng là bệnh mãn tính (kéo dài) hơn nhiều so với rối loạn trầm cảm chính, trong đó các triệu chứng có thể xuất hiện trong ít nhất hai tuần. Ngoài ra, chứng rối loạn trầm cảm dai dẳng thường xuất hiện sớm hơn so với rối loạn trầm cảm chính. Chứng rối loạn trầm cảm dai dẳng có thể được điều trị bằng liệu pháp tâm lý, dược lý hoặc kết hợp cả hai. Tâm lý trị liệu có thể giúp bệnh nhân đối phó với cảm xúc của họ, thay đổi lối suy nghĩ tiêu cực và cải thiện các mối quan hệ. Liệu pháp dược lý có thể giúp giảm các triệu chứng trầm cảm bằng thuốc chống trầm cảm, chẳng hạn như thuốc ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc (SSRI). Điều trị trầm cảm mãn tính có thể mất nhiều thời gian hơn và cần điều chỉnh nhiều hơn so với trầm cảm không mãn tính.
19,822,761
857886
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822761
Five Nights at Freddy's (phim)
Five Nights at Freddy's (tựa Việt: Năm Đêm Kinh Hoàng) là một bộ phim kinh dị siêu nhiên của Hoa Kỳ được Emma Tammi đạo diễn từ kịch bản mà cô cùng viết với Scott Cawthon và Seth Cuddeback. Được sản xuất bởi Blumhouse Productions và Striker Entertainment, bộ phim được dựa trên loạt trò chơi điện tử cùng tên được sản xuất bởi Cawthon, người đóng vai trò sản xuất với Jason Blum. Bộ phim có sự tham gia của Josh Hutcherson, Elizabeth Lail, Piper Rubio, và Matthew Lillard. Việc phát triển một bộ phim chuyển thể của "Five Nights at Freddy's" bắt đầu từ tháng 4 năm 2015, với sự tham gia của Warner Bros. Pictures. Roy Lee, David Katzenberg, và Seth Grahame-Smith được phân công sản xuất, và Gil Kenan được phân công đạo diễn và đồng biên kịch. Sau nhiều lần trì hoãn và dời lịch, phiên bản của Warner Bros. ngừng phát triển và Kenan rời khỏi dự án. Tháng 3 năm 2017, Blumhouse Productions được công bố là công ty sản xuất mới, với Chris Columbus làm đạo diễn và đồng biên kịch. Columbus sau cung rời khỏi dự án và được thay thế bởi Emma Tammi vào tháng 10 năm 2022. Dàn diễn viên chính được công bố vào tháng 12, và các diễn viên còn lại được công bố vào tháng 3 năm 2023. Bộ phim khởi quay tại New Orleans vào ngày 1 tháng 2 và đóng máy vào ngày 3 tháng 4 năm 2023. "Five Nights at Freddy's" dự kiến được phát hành bởi Universal Pictures đồng thời tại các rạp và trên nền tảng trực tuyến Peacock tại Hoa Kỳ vào ngày 27 tháng 10 năm 2023. Tóm tắt. Mike Schmidt, một nhân viên bảo vệ đang gặp khó khăn, chấp nhận công việc trực đêm tại Freddy Fazbear's Pizza, một trung tâm giải trí gia đình bị bỏ hoang, nơi anh phát hiện ra bốn linh vật thú máy – Freddy Fazbear, Bonnie, Chica, và Foxy – di chuyển và giết bất kỳ ai còn ở đây sau nửa đêm. Diễn viên. Ngoài ra, YouTuber CoryxKenshin xuất hiện trong vai khách mời là một tài xế taxi. Sản xuất. Phát triển. Warner Bros. Prictures thông báo vào tháng 4 năm 2015 rằng họ đã mua được bản quyền phim cho loạt game Five Nights at Freddy's, và sẽ được sản xuất bởi Roy Lee, David Katzenberg, và Seth Grahame-Smith. Grahame-Smith nói rằng họ sẽ hợp tác với Cawthon để "làm một bộ phim điên rồ, đáng sợ và dễ thương một cách kỳ lạ". Tháng 7 năm 2015, Gil Kenan đã ký hợp đồng đạo diễn bộ phim và sẽ cũng viết kịch bản với Tyler Burton Smith. Tháng 3 năm 2017, Cawthon đăng lên Twitter thông báo Blumhouse Productions sẽ sản xuất bộ phim sau khi Warner Bros. Pictures tạm dừng phát triển. Tháng 5 năm 2017, nhà sản xuất Jason Blum nói rằng ông rất hứng thú khi được làm việc với Cawthon trong dự án chuyển thể này. Tháng 6 năm 2017, Kenan nói rằng ông sẽ không làm đạo diễn của phim nữa. Tháng 2 năm 2018, Chris Columbus được công bố rằng ông sẽ làm đạo diễn và biên kịch cho bộ phim, đồng thời tham gia sản xuất với Blum và Cawthon. Tháng 8 năm 2018, Cawthon thông báo bản thảo đầu tiên cho kịch bản phim (liên quan đến các sự kiện trong phần game đầu tiên) đã hoàn thành và có khả năng cho các bộ phim thứ hai và ba. Cũng trong tháng 8, Blum đã đăng lên Twitter nói rằng bộ phim dự kiến ra mắt vào năm 2020. Tuy nhiên, vài tháng sau, vào tháng 11 năm 2018, Cawthon thông báo kịch bản của phim đã bị hủy bỏ và bộ phim sẽ lại bị lùi lịch. Sau gần hai năm không có thông báo, vào tháng 6 năm 2020, trên một buổi phòng vấn trên Fandom, khi được hỏi về bộ phim, Blum nói: Tháng 9 năm 2021, Blum thông báo Columbus sẽ không còn tham gia dự án, nhưng dự án vẫn đang trong quá trình sản xuất. Tháng 8 năm 2022, Blum thông báo Jim Henson's Creature Shop sẽ tham gia chế tạo các nhân vật thú máy cho phim. Tháng 10, Emma Tammi được công bố là đạo diễn thay thế Columbus, đồng thời là đồng biên kịch với Cawthon và Seth Cuddeback,\ Diễn viên. Tháng 12 năm 2022, Josh Hutcherson và Matthew Lillard tham gia vào dàn diễn viên nhưng chưa có nhân vật cụ thể. YouTuber chuyên về "Five Nights at Freddy's" Dawko cho biết trong một buổi livestream rằng Hutcherson sẽ đóng vai nhân viên bảo vệ Mike Schmidt của phần game đầu tiên và Lillard sẽ đóng vai phản diện chính của loạt game William Afton. Anh cũng cho biết Mary Stuart Masterson và Piper Rubio sẽ tham gia dự án lần lượt trong vai phản diện nữ không xác định và em gái của Schmidt tên Abby. Tháng 3 năm 2023, Kat Conner Sterling và Elizabeth Lail được xác định là sẽ tham gia bộ phim. Lucas Granta và Jessica Blackmore được thông báo có vai diễn chưa xác định. Quay phim. Qua trình quay phim chính ban đầu dự kiến bắt đầu vào tháng 3 năm 2021. Tuy nhiên, do vấn đề kịch bản, việc quay phim đã bị dời lại. Việc quay phim chính thức được tiến hành vào ngày 1 tháng 2 năm 2023 tại New Orleans dưới tên tạm là "Bad Cupcake", với kinh phí (trước thuế) là 25 triệu USD, và đóng máy vào ngày 3 tháng 4. Lillard bắt đầu quay các phân cảnh của ông từ giữa tháng 2. Phát hành. "Five Nights at Freddy's" dự kiến được phát hành bởi Universal Pictures đồng thời tại các rạp và trên nền tảng trực tuyến Peacock tại Hoa Kỳ vào ngày 27 tháng 10 năm 2023. Tương lai. Tháng 8 năm 2018, Cawthon cho biết nếu bộ phim đầu tiên thành công, sẽ có khả năng có phần thứ hai và ba, đi theo tuyến truyện của phần game thứ hai và ba. Tháng 1 năm 2023, trong một buổi phóng vấn trên podcast "WeeklyMTG", Lillard tiết lộ ông đã ký hợp đồng dài ba bộ phim với các hãng sản xuất.
19,822,766
912316
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822766
Abstract (album)
Abstract là một album của nghệ sĩ chơi kèn saxon Joe Harriott, được thu âm tại vương quốc Anh vào tháng 11 năm 1961 và tháng 5 năm 1962, phát hành bởi Columbia (UK) tháng 2 năm 1963. Tại Hoa Kỳ, album được phát hành bởi Capitol Records. Đón nhận. "Abstract" là album đầu tiên bởi một ban nhạc jazz Anh Quốc được trao tặng 5 ngôi sao trong bài tường thuật review "Down Beat". Allmusic được trao giải album 4 ngôi sao và trong bài tường thuật review của nó bởi Thơm Jurek, ông ghi nhận rằng, ""Abstract" thật tuyệt vời; nó thể hiện rằng người Anh đang tiếp nhận phong cách jazz mới của đầu thập niên 1960 và đặt nó làm tâm điểm bởi họ có những tay chơi như Joe Harriott. Đây là một nhạc sĩ xứng đáng được đón tiếp rộng rãi. Hãy hy vọng rằng anh ấy nhận được nó." Danh sách ca khúc. "All compositions bởi Joe Harriott," ngoại trừ "Subject", bởi Joe Harriott và John Mayer; "Oleo," bởi Sonny Rollins.
19,822,776
3200
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822776
Eriko Sotarduga
Eriko Sotarduga Binsar Pahalatua Sitorus (sinh ngày 10 tháng 4 năm 1969) là một chính trị gia người Indonesia thuộc Đảng Dân chủ - Đấu tranh Indonesia (PDI-P), ông là đại biểu của Hội đồng Đại diện Nhân dân từ năm 2009, đại diện cho . Đầu đời. Eriko Sotarduga sinh tại Medan, Bắc Sumatra vào ngày 10 tháng 4 năm 1969. Ông là người gốc Batak. Sau khi hoàn thành bậc trung học ở Medan, ông chuyển đến Jakarta rồi theo học tại Đại học Trisakti và đạt bằng cử nhân kỹ thuật cơ khí năm 1993. Sự nghiệp. Eriko là một doanh nhân kinh doanh đồn điền cọ dầu ở hai tỉnh Riau và Kalimantan, trạm xăng và xưởng sửa chữa ô tô. Ông gia nhập Đảng Dân chủ - Đấu tranh Indonesia (PDI-P) năm 1999 và trở thành người tổ chức phe cánh thanh niên thuộc đảng PDI-P. Đến năm 2010, ông chuyển sang đảng chính, giữ chức phó tổng thư ký vào năm 2010. Ông được bầu vào Hội đồng Đại biểu Nhân dân đại diện cho khu vực bầu cử Jakarta II sau cuộc bầu cử năm 2009, nhận được 37.067 phiếu bầu. Khi tranh cử vào năm 2014, Eriko đã thành lập trại "Kampung Pemilu" phía trước nhà chủ tịch đảng Megawati Sukarnoputri ở Nam Jakarta, nơi đây cung cấp dịch vụ cắt tóc và sửa chữa xe máy miễn phí cho người dân địa phương. Ông điều hành các cơ sở tương tự tại sáu khu ở Jakarta. Ngoài ra, Eriko còn tài trợ cho hoạt động phun thuốc diệt muỗi. Eriko cho biết điều này cho phép ông gặp gỡ khoảng 1.000 người trong khu vực bầu cử trong ba giờ phun thuốc, lúc này mọi người sẽ ở bên ngoài. Ông tái đắc cử nhiệm kỳ thứ hai vào năm 2014, và nhiệm kỳ thứ ba vào năm 2019 với 104.468 phiếu bầu. Ông còn là người phát ngôn trong nhóm vận động tranh cử năm 2019 của Tổng thống Joko Widodo. Ông là thành viên của ủy ban thứ năm, thứ sáu và thứ mười một trong cơ quan lập pháp. Là thành viên của ủy ban thứ mười một (bao gồm các tổ chức tài chính), Eriko đề xuất vào năm 2020 là Cơ quan Dịch vụ Tài chính sẽ giải thể và chuyển giao quyền hạn cho ngân hàng trung ương, dẫn chứng một số hợp đồng bảo hiểm và bê bối ngân hàng. Vào tháng 1 năm 2023, ông đề xuất Ngân hàng Rakyat Indonesia thuộc sở hữu của chính phủ mua lại toàn bộ các ngân hàng phát triển khu vực, với lý do cần phải cung cấp công nghệ cải tiến và tăng cường hoạt động tiền vốn của ngân hàng khu vực. Gia đình. Eriko là tín đồ Kitô hữu và kết hôn với Roslina T. Nainggolan. Họ có ba người con.
19,822,783
780814
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822783
Đình Pò Háng
Đình Pò Háng là di tích lịch sử thuộc thôn Pò Háng, xã Bính Xá, huyện Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn. Đây là một ngôi đình cổ thờ Vua Đinh Tiên Hoàng của cộng đồng người Tày - Nùng vùng biên giới Đông Bắc Việt Nam. Đình chứa đựng nhiều giá trị về lịch sử, văn hóa, tín ngưỡng và là 1 trong số ít 6 di tích của Đình Lập nên được chính quyền và người dân có nhiều giải pháp để bảo tồn và phát huy giá trị di tích. Vị trí. Đình Pò Háng nằm ở vùng biên giới huyện Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn, tại km 150, quốc lộ 31, gần cửa khẩu Bản Chắt. Vị trí trên đồi cao làm cho di tích lịch sử được coi như là một pháo đài, là điểm tựa tâm linh giữ yên biên ải. Pò Háng là tiếng Tày, Nùng địa phương. Pò nghĩa là vùng đồi, Háng là chợ, gọi là chợ trên một vùng đồi. Nơi đây bốn bề đồi núi ngút ngàn cây xanh bên dòng sông Kỳ Cùng chảy ngược. Trước đây, người dân Pò Háng ở bên này sông Kỳ Cùng. Từ năm 1966, 1967, khi mở tuyến đường đi ra biên giới, cả thôn Pò Háng đã rời sang bên kia sông Kỳ Cùng, chỉ còn đình làng Pò Háng ở lại. Ngôi đình hiện được xây dựng kiên cố theo lối truyền thống, lợp ngói âm dương với ban thờ thành hoàng làng được bố trí ở giữa. Khuôn viên đình được quy hoạch rộng hơn 1.000 m2 gồm sân gạch, tường bao cùng hàng cây cổ thụ xung quanh. Lịch sử. Đình Pò Háng là một ngôi đình cổ thờ Vua Đinh Tiên Hoàng, ngoài ra còn phối thờ vị thành hoàng làng có tên là Hoàng Lang. Xung quanh câu chuyện về việc thờ tự tại ngôi đình có rất nhiều câu chuyện huyền thoại được truyền từ đời này sang đời khác. Cũng giống như đình Pác Mòng ở thành phố Lạng Sơn hay đền Phja Đeng tỉnh Bắc Kạn. Đình Pò Háng là di tích thờ Vua Đinh Tiên Hoàng của người Tày, Nùng. Việc xuất hiện nhân vật lịch sử này trên vùng đất Xứ Lạng cho thấy sự giao thoa văn hóa của dân tộc Kinh trong cộng đồng các dân tộc thiểu số Tày, Nùng ở miền núi phía Bắc. Vùng đất Lạng Sơn có núi non bao bọc hiểm trở, địa đầu biên giới đất nước. Với vị trí quan trọng như vậy, Vua Đinh Tiên Hoàng đã nhiều lần cầm quân lên đây để dẹp loạn phương Bắc. Sau khi vua Đinh Tiên Hoàng mất, người Việt tại những nơi Vua hành quân đi qua đều lập miếu để thờ. Đình Pò Háng nằm trong khu căn cứ kháng chiến Nà Thuộc. Trong suốt hai năm 1947, 1948, quân dân Nà Thuộc đã đánh thắng các trận tiến công liên tiếp của giặc Pháp. Tin vui thắng trận lan đi khắp các chiến trường Việt Bắc. Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng Huân chương Chiến công hạng Ba và bức trướng Ủng hộ kháng chiến cho quân dân Nà Thuộc. Theo Lịch sử Đảng bộ huyện Đình Lập, đình Pò Háng cũng là nơi các thanh niên trong xã tổ chức uống máu xin thề, kiên quyết đánh giặc. Vào ngày 14/4/1944 âm lịch tại Đình Pò Háng, có 09 người gồm: Ông Hoàng Viết Say - Trưởng thôn Pò Phát; Bế Tiến Vọng - Thôn Pò Háng; Hoàng Phúc Vượng - Thôn Pò Phát; Vương Ngọc Minh - thôn Pò Phát; Vi Lương Hậu – Thôn Pàn Mò; Bế Thiên Minh - Thôn Pò Mất; Hoàng Văn Đạo - Thôn Pò Háng (7 người xã Bính Xá) cùng với Ông Hoàng An Ninh và Nông Văn Nguyên – thôn Bản Hang xã Kiên Mộc đã tổ chức lễ cắt máu ăn thề, kiên quyết đánh giặc Pháp. Sự kiện này đã tạo tiếng vang lớn trong khu căn cứ kháng chiến Nà Thuộc và nhân dân 3 xã Bính Xá, Bắc Xa, Kiên Mộc. Đặc biệt, năm 1948, tại Đình Pò Háng, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký lệnh tặng bức trướng đặc biệt thêu chữ Hán, phía dưới phiên âm bằng chữ quốc ngữ là “Chiến kháng hộ ủng” (ủng hộ kháng chiến). Đình Pò Háng được xếp hạng di tích cấp tỉnh từ năm 2002. Lễ hội Đình Pò Háng diễn ra hằng năm vào ngày 3/3 âm lịch và 14/4 với hoạt động tế lễ tôn vinh Đinh Bộ Lĩnh và các tướng lĩnh Vương Triều Đinh đã có công đánh dẹp và giữ yên vùng đất nơi địa đầu biên giới Đại Cồ Việt.
19,822,792
478622
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822792
Ondskan (phim)
Ondskan () là một bộ phim điện ảnh chính kịch của Thụy Điển được công chiếu tại các rạp phim ở Thụy Điển vào ngày 26 tháng 9 năm 2003, do Mikael Håfström làm đạo diễn, dựa trên cuốn tiểu thuyết bán tự truyện cùng tên của Jan Guillou từ năm 1981. Phim có sự tham gia diễn xuất của Andreas Wilson, Henrik Lundström và Gustaf Skarsgård. Bộ phim lấy bối cảnh tại một trường nội trú tư thục vào cuối thập niên 1950 với trọng tâm là đề tài bạo lực học đường. Bộ phim đã nhận được đề cử giải Oscar cho Phim ngoại ngữ xuất sắc nhất tại lễ trao giải Oscar lần thứ 76. Tác phẩm còn đoạt ba giải Guldbagge của Thụy Điển, tính cả Phim xuất sắc nhất. Nội dung. Năm 1958, cậu nhóc 15 tuổi Erik Ponti sống cùng mẹ và người cha dượng tàn ác ở Stockholm. Ở nhà, cha dượng đánh cậu mỗi ngày sau bữa tối. Người mẹ dễ sai bảo của cậu buộc phải lờ đi bản chất ác dâm của chồng và để cho bạo lực tiếp diễn, do bà sợ phải can thiệp và thay vào đó chơi dương cầm để tránh nghe thấy tiếng ồn của vụ bạo hành. Ở trường, Erik rất bạo lực và thường xuyên đánh nhau, do cậu bị nuôi dạy bạo lực từ nhỏ. Sau một vụ ẩu đả chiến đặc biệt ác liệt, Erik bị đuổi học. Hiệu trưởng nhận xét cậu là xấu xa và cáo buộc cậu là cái ác thuần túy. Nhằm mang đến cho con trai mình một khởi đầu mới và cơ hội cuối để hoàn thành việc học, mẹ cậu đã bán một số đồ gia truyền có giá trị của mình và gửi Erik đến một trường nội trú giàu có. Sau khi đến Stjärnsberg nhận ra trường nội trú là cơ hội cuối cùng để đạt được Sixth Form, Erik cố quên đi xu hướng bạo lực của mình. Tại ngôi trường danh giá, 12 thành viên của Sixth Form lập nên Hội học sinh. Họ áp đặt một luật ác độc lên trường học và trừng phạt bằng thể chất và tâm lý với những học sinh không vâng lời; hành vi này hoàn toàn bị các nhân viên của trường phớt lờ, họ lựa chọn để học sinh tự quản lý hành vi của nhau. Khi Erik từ chối tuân theo những yêu cầu lố bịch của hai thành viên Hội học sinh là Silverhielm và Dahlén, cậu trở thành mục tiêu bị bắt nạt không ngừng. Việc cậu từ chối hạ thấp bản thân bằng cách tuân theo những hình phạt nhục nhã của họ làm cậu bị phạt nhiều lần vào cuối tuần. Erik kết bạn với người bạn cùng phòng trí thức Pierre, cậu này cố sống thầm lặng để tránh bị bắt nạt. Trong lúc đang ở trong nhà bếp của trường vào một ngày cuối tuần, sau một ngày lao động đặc biệt mệt mỏi, Erik gặp Marja, một nhân viên quán cà phê xinh đẹp có thị thực lao động từ Phần Lan. Cả hai bắt đầu quan hệ tình cảm khi Marja ngưỡng mộ tính cách kiên cường và chính trực của Erik. Trong khi đó, Erik đăng ký tham gia đội bơi lội. Một trận đấu bơi lội sắp diễn ra và Erik quyết tâm giành chức vô địch, nhưng cậu sớm nhận ra rằng để vô địch, cậu phải đánh bại đương kim vô địch của trường - con trai nhà tài trợ nổi bật nhất cho trường. Cậu biết rằng việc vô địch sẽ biến cậu trở thành mục tiêu bị bắt nạt hơn bao giờ hết, nhưng vị huấn luyện viên bơi lội công bằng và tận tâm cam đoan với cậu rằng đó là vấn đề danh dự và cậu không được thua. Rồi Erik giành chức vô địch, phá một số kỷ lục của trường và làm bẽ mặt một số thành viên của Sixth Form, và chúng đành mỉa mai vỗ tay khi thành tích của cậu được huấn luyện viên bơi lội công bố. Nhân dịp nghỉ Giáng Sinh, Erik ghé về thăm nhà. Cha dượng đánh đập cậu không thương tiếc, trong khi mẹ anh chơi đàn dương cầm để lấp đi âm thanh của cây gậy. Khi cậu trở lại trường học, hội học sinh bắt đầu nhắm vào Pierre, người bạn tri thức của Erik. Pierre không chịu phản kháng. Đau đớn khi thấy bạn mình bị sỉ nhục, Erik rời đội bơi vì tin rằng điều này sẽ cứu bạn mình khỏi bị liên tục bắt nạt. Nhưng điều đó dường như chưa đủ. Một lúc sau, Erik được gọi đến phòng của chủ tịch hội đồng là Silverhielm. Ở đó, Pierre bị bắt lột quần áo còn Dahlén dọa sẽ châm điếu thuốc vào ngực cậu ấy, nhưng thay vào đó, Erik đã tình nguyện thay bạn mình và kiên cường chịu đựng cơn đau. Ngày hôm sau, Pierre được thách đấu với hội học sinh. Cậu ấy bị đánh đập dã man nhưng không tuân theo yêu cầu của họ. Ngày hôm sau, Erik bị phục kích trên đường đi bộ trở về từ nơi giam giữ. Họ trói cậu xô xuống đất và đổ nước sôi lên người cậu, rồi đổ nước lạnh và định để cậu chết cóng ngoài trời. Tuy nhiên, cậu được Marja giải cứu. Cả hai ngủ cùng nhau và Erik trở về phòng thì thấy Pierre đã rời trường. Erik, cay đắng và chán nản, thách đấu Dahlén và von Schenken. Cậu nhanh chóng đánh bại cả hai, rồi đi tìm Marja, nhưng biết tin cô đã rời đi Phần Lan sau khi bị sa thải không rõ lý do. Hiệu trưởng Silverhielm lấy được một bức thư tình mà Marja gửi cho Erik, dẫn đến việc Erik bị đuổi học vì có quan hệ tình dục với một nhân viên trong trường. Erik lùng sục và tìm ra Silverhielm trong rừng để trả thù và dọa sẽ giết cậu ta. Silverhielm quỳ gối cầu xin tha mạng sau khi sợ hãi đến phát khóc và nôn mửa, thì Erik thấy mình sắp bộc lộ xu hướng bạo lực nên đã kiềm chế và cam đoan với Silverhielm rằng cậu sẽ không giết cậu ta vì hai người không giống nhau. Erik trở lại trường với người bạn của gia đình mẹ cậu, một vị luật sư tên Ekengren. Ekengren đối mặt với hiệu trưởng và cho rằng việc nhà trường đoạt lấy bức thư của Marja là vi phạm nghiêm trọng luật bí mật thư từ của Thụy Điển và dọa công bố văn hóa coi thường luật pháp cũng như sự cố tình phớt lờ của hiệu trưởng và các nhân viên khác trong trường. Sau đó Erik được bỏ đình chỉ và đi học trở lại, nhận lại bức thư từ Marja và được phép kết thúc học kỳ cuối trong hòa bình tương đối. Năm học kết thúc, Erik trở về nhà và thấy mẹ cậu bị cha dượng đánh đập. Cha dượng cố đánh cậu một lần nữa, nhưng Erik cảnh báo ông ta rằng mọi chuyện đã kết thúc. Cậu nói với mẹ mình (lúc ấy bị sốc) rằng đây là lần cuối cùng gia đình xảy ra bạo lực và tự đóng cửa sau lưng mình, khi cậu chuẩn bị đáp trả cho nhiều năm bị cha dượng bạo hành và đánh đập. Người cha dượng vĩnh viễn rời khỏi gia đình và bị giết trong bệnh viện. Erik làm hòa với Pierre khi cậu bạn chuẩn bị đến Geneva để tiếp tục con đường học vấn của mình, rồi Erik bắt đầu liên lạc với Marja, lên kế hoạch xây dựng gia đình và thực hiện ước mơ trở thành luật sư. Sản xuất. Dựa trên một trong những cuốn sách bán chạy nhất của Thụy Điển thời hiện đại, đã có những bàn luận về việc chuyển thể thành phim trong nhiều năm (kể cả một số lần thất bại), trước khi Mikael Håfström được mời làm đạo diễn bộ phim. Ban đầu dự án được thai nghén thành một bộ phim truyền hình dài tập, nhưng Håfström thấy mình chưa sẵn sàng cho một quá trình sản xuất dài kì như vậy. Thay vào đó, anh đã đợi vài năm và cuối cùng thuyết phục được các nhà sản xuất biến nó thành phim điện ảnh. Håfström đã mời Hans Gunnarsson (một đồng nghiệp anh từng làm việc cùng) làm đồng tác giả kịch bản, và quá trình sáng tác cũng như lên kinh phí được tiến hành nhanh chóng. Kinh phí bộ phim là 20 triệu krona Thụy Điển. Việc tuyển chọn diễn viên phụ diễn ra mà không gặp bất kỳ khó khăn đáng kể nào, song mặc dù đã có hơn 120 ứng viên đi thử vai, nhưng đoàn phim vẫn chưa tìm được diễn viên chính khi chỉ còn hai tuần nữa là bộ phim bấm máy ghi hình. Cuối cùng, đạo diễn lựa chọn Andreas Wilson, một nam người mẫu trẻ với kinh nghiệm diễn xuất rất hạn chế mà ông từng gặp lướt qua tại một bữa tiệc sinh nhật. Håfström đã liên lạc với những người mà ông biết từng tham gia bữa tiệc để lấy số điện thoại của Wilson, sau đó ông gọi cho anh và mời anh đến. Håfström ngay lập tức chắc chắn rằng mình đã tìm đúng người, và sau một vài cuộc kiểm tra thể chất, Wilson đã được giao vai diễn này. Trước khi bắt đầu ghi hình, Wilson đã được tập luyện bơi lội để học cách bơi trườn sấp theo những vận động viên bơi lội ở thập niên 1950. Quá trình quay phim mất 30 ngày để hoàn thành, từ đầu tháng 10 đến tháng 11 năm 2002. Ngôi trường Stjärnsberg trong phim dựa trên trường nội trú Solbacka, ngôi trường có thật mà tác giả tiểu thuyết theo học. Trường bị đóng cửa năm 1973. Tòa nhà gốc của Solbacka vẫn tồn tại và hoạt động thành một trung tâm giải trí cho các vận động viên chơi golf, nhưng đã được cải tạo đến mức đạo diễn cảm thấy nó không thể được sử dụng làm địa điểm quay phim đáng tin cậy. Thay vào đó, hầu hết các cảnh quay bên ngoài được thực hiện xung quanh Nhà Görväln ở Jakobsberg, phía bắc Stockholm. Khu ăn uống trong phim được xây dựng trong một studio như một bản sao nhà ăn gốc của trường học, dựa trên những bức ảnh từ thời đó. Các cảnh quay ở hồ bơi được ghi hình tại trường Gubbängsskolan ở phía nam Stockholm. Các bài hát có mặt trong phim gồm có "Stupid Cupid" của Neil Sedaka, "The Great Pretender" của The Platters, "Weisser Halunder" của Inger Berggren và "Peggy Sue" của Buddy Holly & The Crickets. Phát hành. Bộ phim lần đầu được trình chiếu cho những khách hàng tiềm năng tại Thị trường phim Marché của Liên hoan phim Cannes năm 2003. Buổi chiếu đầu tiên trước khán giả của phim là tại Liên hoan phim quốc tế Toronto vào tháng 9 cùng năm. Buổi ra mắt phim tại Thụy Điển diễn ra vào ngày 26 tháng 9. "Ondskan" đã gặt hái thành công lớn về mặt thương mại ở Thụy Điển với tổng số 959.223 lượt vé bán ra. Ngày 24 tháng 6 năm 2005, tác phẩm được phát hành tại Vương quốc Anh và vào ngày 10 tháng 3 năm 2006 dưới dạng phát hành hạn chế tại Hoa Kỳ. Đón nhận. Đánh giá chuyên môn. "Ondskan" nhận được 68% lượng tán đồng trên trang web tổng hợp đánh giá Rotten Tomatoes, dựa trên 38 bài đánh giá và đạt điểm trung bình là 6,53/10. Các chuyên gia của trang web nhất trí: "Những nỗ lực của "Evil" nhằm giải mã nguyên nhân và hậu quả của bạo lực không phải lúc nào cũng thành công, nhưng kết quả của cái kết được dàn dựng tốt vẫn có tác động đáng lo ngại. Metacritic thì chấm bộ phim số điểm trung bình là 61/100, dựa trên 15 nhà phê bình, thể hiện "các bài đánh giá nhìn chung là ổn". Giải thưởng. Bộ phim đã được Thụy Điển gửi đi tranh giải Oscar cho Phim ngoại ngữ xuất sắc nhất tại lễ trao giải Oscar lần thứ 76. Ngày 27 tháng 1 năm 2004, có thông báo rằng phim đã lọt vào 5 đề cử chung cuộc. Jan Guillou không thể tham dự lễ trao giải vì không nhận được vé. Tại giải Guldbagge của Thụy Điển, phim nhận được 7 đề cử và thắng ba giải: Phim xuất sắc nhất, Quay phim xuất sắc nhất và Thiết kế sản xuất xuất sắc nhất. Các hạng mục mà phim thất cử là Đạo diễn xuất sắc nhất, Kịch bản xuất sắc nhất, Nam diễn viên chính xuất sắc nhất cho Wilson và Nam diễn viên phụ xuất sắc nhất cho Gustaf Skarsgård.
19,822,795
70588574
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822795
Artemis (định hướng)
Artemis có thể đề cập đến:
19,822,797
780814
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822797
Larnell Cole
Larnell James Cole (sinh ngày 9 tháng 3 năm 1993) là một cầu thủ bóng đá người Anh thi đấu ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ Warrington Town.
19,822,798
333700
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822798
Công tước xứ Lennox
Công tước xứ Lennox (tiếng Anh: "Duke of Lennox") là một tước hiệu quý tộc ở Scotland thuộc Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland. Nó đã được tạo ra nhiều lần trong giới quý tộc Scotland, dành cho Thị tộc Stewart xứ Darnley. Trước vị được đặt tên theo Quận Lennox ở Dumbarton, được tạo ra lần đầu tiên vào năm 1581 và trước đây là Bá tước xứ Lennox. Công tước thứ hai của Lennox được phong làm Công tước xứ Richmond; khi ông qua đời, công tước Richmond bị tuyệt tự và thu hồi. Công tước thứ tư cũng được phong làm Công tước xứ Richmond; sau cái chết của công tước thứ sáu, cả hai tước vị đều tuyệt tự nên bị thu hồi. Công tước xứ Richmond và Công quốc xứ Lennox được tạo ra vào năm 1675 và trao cho Charles Lennox, con hoang hoàng gia của Vua Charles II. Công tước xứ Richmond và Lennox được phong thêm Công tước xứ Gordon vào năm 1876. Do đó, Công tước Lennox nắm giữ và kiêm nhiệm thêm 4 tước vị công tước khác (nếu bao gồm cả Aubigny-sur-Nère), nhiều hơn bất kỳ gia đình quý tộc nào khác trong vương quốc Anh; Kể từ năm 2022 (không tính tước hiệu được tuyên bố ở Pháp) thì Công tước xứ Lennox ngang bằng số tước hiệu với Vương tử William, Thân vương xứ Wales.
19,822,801
780814
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822801
Zeki Fryers
Ezekiel David Fryers (sinh ngày 9 tháng 9 năm 1992) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Anh thi đấu ở vị trí hậu vệ cho AFC Eskilstuna. Danh hiệu. Swindon Town
19,822,803
845147
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822803
Các ngày lễ tại Azerbaijan
Có một số ngày lễ tại Azerbaijan. Các ngày lễ được quy định trong hiến pháp của CHXHCNXV Azerbaijan lần đầu tiên vào ngày 19 tháng 5 năm 1921. Ngày nay chúng được quy định trong Hiến pháp Azerbaijan. Ngày lễ. Các ngày lễ khác. Các ngày lễ quốc gia tại Azerbaijan vẫn là những ngày làm việc như sau: Ngày tôn giáo. Các ngày lễ Ramadan và Qurban vẫn là những ngày tôn giáo không làm việc ở Azerbaijan vì đất nước này rất thế tục và phi tôn giáo. Dân cư sùng đạo của đất nước, chủ yếu tại Nardaran và một số làng và khu vực khác kỷ niệm ngày Ashura, một ngày để tang của người Shia trong lịch Hồi giáo. Các nhóm tôn giáo thiểu số trong nước - chủ yếu là Cơ đốc nhân chính thống và người Do Thái - cũng kỷ niệm những ngày tôn giáo nổi bật trong đức tin của họ. Mặc dù thực tế là ngày lễ Novruz có nguồn gốc từ tôn giáo Hoả giáo, nhưng hầu như tất cả người dân Azerbaijan đều kỷ niệm ngày này với ý nghĩa một ngày lễ của mùa xuân.
19,822,804
912316
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822804
Richard Eckersley (cầu thủ bóng đá)
Richard Jon Eckersley (sinh ngày 12 tháng 3 năm 1989) là một cựu cầu thủ bóng đá người Anh từng thi đấu ở vị trí hậu vệ cánh.
19,822,808
333700
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822808
Công tước xứ Queensberry
Công tước xứ Queensberry (tiếng Anh: "Duke of Queensberry") được tạo ra thuộc Đẳng cấp quý tộc Scotland vào ngày 3 tháng 2 năm 1684 cùng với tước hiệu phụ là Hầu tước xứ Dumfriesshire trao cho William Douglas, Công tước thứ nhất xứ Queensberr. Tước vị Công tước được nắm giữ cùng với Hầu tước xứ Queensberry cho đến khi Công tước thứ 4 (và Hầu tước thứ 5) qua đời vào năm 1810, khi Hầu tước được thừa kế bởi Ngài Charles Douglas của Kelhead, Nam tước thứ 5, trong khi tước vị Công tước xứ Queensberry được thừa kế bởi Công tước thứ 3 xứ Buccleuch. Kể từ đó, tước hiệu Công tước xứ Queensberry được giữ bởi Công tước xứ Buccleuch. Năm 1708, Công tước thứ 2 được phong làm Công tước xứ Dover (cùng với các tước hiệu phụ là Hầu tước xứ Beverley và Nam tước Ripon) thuộc Đẳng cấp quý tộc Đại Anh, nhưng những tước hiệu này đã biến mất sau cái chết của Công tước xứ Dover thứ 2 vào năm 1778. Năm 1945, Vua George VI muốn trao cho thủ tướng Winston Churchill tước vị Công tước xứ Dover, nhưng ông đã từ chối. Một số tước hiệu phụ được liên kết với Công tước xứ Queensberry, cụ thể là Hầu tước xứ Dumfriesshire (1683), Bá tước xứ Drumlanrig và Sanquhar (1682), Tử tước xứ Nith, Tortholwald và Ross (1682) và Lãnh chúa Douglas xứ Kilmount, Middlebie và Dornock (1682) (tất cả đều thuộc Đẳng cấp quý tộc Scotland). Trụ sở của gia đình Công tước là tại Lâu đài Drumlanrig, được xây dựng bởi Công tước thứ nhất xứ Queensberry.
19,822,809
780814
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822809
Michael Barnes (cầu thủ bóng đá)
Michael Thomas Barnes (sinh ngày 24 tháng 6 năm 1988) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Anh từng thi đấu ở vị trí tiền vệ cánh.
19,822,810
479787
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822810
Trường Đại học Kinh tế Hà Nội
Trường Đại học Kinh tế Hà Nội có thể là:
19,822,813
912316
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822813
Kieran Lee
Kieran Christopher Lee (sinh ngày 22 tháng 6 năm 1988) là một cầu thủ bóng đá người Anh thi đấu ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ tại Bolton Wanderers tại League One.
19,822,814
603231
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822814
Khu tự quản của Phần Lan
Khu tự quản (, ) là một cấp hành chính tự cơ sở của Phần Lan. Lãnh thổ Phần Lan được chia thành các đơn vị tự quản bình đẳng về mặt pháp luật. Một đơn vị hành chính cấp khu tự quản chỉ có thể là một huyện (/) hoặc một thành phố (/), và cách gọi cho khu tự quản ấy do hội đồng điều phối quyết định. Các khu tự quản cung cấp ⅔ khối lượng dịch vụ công; có quyền đánh thuế thu nhập theo tỷ lệ cố định, từ 16 đến 22 phần trăm; và kiểm soát nhiều dịch vụ cộng đồng như trường học, chăm sóc sức khỏe, cung cấp nước và đường giao thông. Tuy nhiên các khu tự quản không có trách nhiệm bảo trì đường cao tốc vì đây là một trong những trách nhiệm của chính quyền cấp trung ương.
19,822,815
780814
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822815
Phil Marsh
Philip Marsh (sinh ngày 15 tháng 11 năm 1986) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Anh thi đấu ở vị trí tiền đạo cho câu lạc bộ Pilkington.
19,822,816
857886
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822816
Five Nights at Freddy's (định hướng)
Five Nights at Freddy's là một loạt thương hiệu truyền thông được phát triển bởi Scott Cawthon Five Nights at Freddy's cũng có thể là: __ĐỊNHHƯỚNG__
19,822,817
780814
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822817
Ryan Shawcross
Ryan James Shawcross (sinh ngày 4 tháng 10 năm 1987) là một cựu cầu thủ bóng đá người Anh từng thi đấu ở vị trí trung vệ. Danh hiệu. Stoke City Cá nhân
19,822,822
827006
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822822
Chôn Pong-chun
= Jeon Bong-jun = Từ Wikipedia, bách khoa toàn thư miễn phí Trong tên tiếng Hàn này, họ là Jeon. Jeon Bong-jun (1855 – 1895) sinh ra ở Taein, Jeollabuk-do, Hàn Quốc. Ông là một nhà lãnh đạo nổi bật của Cách mạng Nông dân Donghak. Do tầm vóc thể chất thấp bé của mình, ông được gọi là "Nokdu Janggun" (녹두장군, Đậu xanh). Đấu tranh và cách mạng. Năm 1894, Jeon Bong Jun và những nông dân khác đã cầu xin một thẩm phán địa phương của tỉnh Jeolla dỡ bỏ thuế nặng (và một số người nói là bất hợp pháp) và trả lại tài sản bị tống tiền lấy từ những người bị buộc tội phạm tội không có căn cứ. Lời cầu xin này của Jeon Bong Jun và những người khác đã bị từ chối. Để phản ứng với sự từ chối này, ông cùng với những nông dân khác, đã nổi dậy và tấn công văn phòng quận và đe dọa sẽ trừng phạt các quan chức tham nhũng nếu họ không chấm dứt tất cả tham nhũng. Kết thúc cách mạng. Vào ngày 28 tháng 1894 năm 2, cuộc cách mạng của Jeon Bong Jun trở nên chống phương Tây và chống Nhật vì những hành động áp bức và tàn bạo của quân đội Nhật Bản trong việc trừng phạt nông dân Hàn Quốc. Cuộc cách mạng này lan rộng từ thị trấn này sang quận khác khi quân đội nông dân thề sẽ tiêu diệt toàn bộ giai cấp thống trị Triều Tiên và trục xuất tất cả các đảng Nhật Bản và phương Tây. Đến tháng Chín, cuộc nổi dậy của nông dân của ông đã kết thúc bạo lực khi quân đội nông dân của ông bị đánh bại hoàn toàn bởi một quân đội Nhật Bản được đào tạo tốt, được trang bị tốt hơn trong Trận Ugeumchi. Jeon Bong-jun bị bắt bởi thống đốc tỉnh Jeolla, Yi Do-jae và bị xử tử bằng cách treo cổ vào ngày 1895 tháng <> năm <>. Đọc thêm. Lew, Ick trẻ. "Tính cách bảo thủ của cuộc nổi dậy nông dân Tonghak năm 1894: Đánh giá lại với sự nhấn mạnh vào nền tảng và động lực của Chŏn Pong-jun." "Tạp chí Nghiên cứu Hàn Quốc" 7, số 1 (1990): 149-80. Thể loại:
19,822,833
42296
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822833
Cảng biển Ninh Bình
Cảng biển Ninh Bình là cảng thuộc nhóm 1 trong Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng biển Việt Nam thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050. Hệ thống cảng biển Ninh Bình gồm các cảng đã và đang xây dựng là: Cảng Đua Fat Kim Sơn, Cảng Ninh Phúc và các cảng được dự kiến xây dựng là: cảng Kim Tân, cảng Cồn Nổi và cảng Cồn Mờ. Ninh Bình cũng đã phê duyệt quy hoạch chung xây dựng khu vực từ đê Bình Minh II đến Cồn Nổi trong đó có các khu dịch vụ logistics cảng sông Đáy, cảng Cồn Nổi. Đối với khu vực Cồn Mờ xây dựng đài quan sát, ngắm cảnh và dịch vụ hỗ trợ hoạt động tàu thuyền trên biển và chuyển đổi khu vực Cồn Mờ thành cảng biển Ninh Bình để phát triển hoạt động vận tải hàng hóa, hành khách trên biển và phát triển du lịch. Hệ thống cảng biển Kim Sơn Ninh Bình cách trung tâm thành phố Ninh Bình khoảng 45 km, cách thị trấn Phát Diệm khoảng 15 km; cách Hà Nội 100km, cách cảng hàng không Quốc tế Nội Bài 140km. Nơi đây, hệ thống giao thông đường bộ, đường thủy kết nối với các địa phương thuận lợi như: quốc lộ 10 cũ, quốc lộ 10 mới quốc lộ 21B, quốc lộ 12B… và các tuyến đường thuỷ qua sông Đáy, sông Vạc, sông Càn, sông Ân Giang, sông Vực, sông Cà Mau, sông Hoành Trực…
19,822,837
70614274
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822837
Quân khu Tây (Liên bang Nga)
Quân khu Tây (tiếng Nga: Западный военный округ, chuyển tự "Zapadnyy voyennyy okrug") là một trong năm quân khu của Lực lượng vũ trang Liên bang Nga. Quân khu này chịu trách nhiệm phòng thủ ở khu vực trung tây của Nga thuộc châu Âu. Trụ sở Bộ Tư lệnh Quân khu Tây đóng tại Sankt-Peterburg. Quân khu Tây được thành lập như một phần của cải cách quân sự năm 2008 và được thành lập theo Nghị định №1144 được ký ngày 20 tháng 9 năm 2010 của Tổng thống Nga, trên cơ sở hợp nhất của Quân khu Moskva, Quân khu Leningrad và Đặc khu Kaliningrad. Quân khu Tây bắt đầu hoạt động vào ngày 20 tháng 10 năm 2010, dưới sự chỉ huy của Thượng tướng Valery Gerasimov. Trung tướng Roman Berdnikov nắm quyền chỉ huy vào ngày 3 tháng 10 năm 2022. Quân khu phía Tây hiện do Đại tướng Yevgeny Nikiforov, người trước đây là Tham mưu trưởng Quân khu Đông, chỉ huy. Quân khu Tây là quân khu nhỏ thứ hai ở Nga tính theo quy mô địa lý. Phạm vi của quân khu bao gồm 26 chủ thể liên bang của Nga: tỉnh Belgorod, tỉnh Bryansk, tỉnh Ivanovo, tỉnh Kaliningrad, tỉnh Kaluga, Karelia, tỉnh Kostroma, tỉnh Kursk, tỉnh Leningrad, tỉnh Lipetsk, Moskva, tỉnh Moskva, tỉnh Nizhny Novgorod, tỉnh Novgorod, tỉnh Oryol, tỉnh Pskov, tỉnh Ryazan, Sankt-Peterburg, tỉnh Smolensk, tỉnh Tambov, tỉnh Tver, tỉnh Tula, tỉnh Vladimir, tỉnh Vologda, tỉnh Voronezh, tỉnh Yaroslavl. Do đó, nó bao gồm Vùng liên bang Trung tâm và phần phía Tây của Vùng liên bang Tây Bắc. Địa phận mà Quân khu Tây bảo vệ giáp biên với Estonia và Latvia là hai quốc gia thành viên NATO, Belarus là đồng minh của Nga, và với Ukraina là nước mà Nga đang giao tranh. Trong chiến tranh Ukraina, một số đơn vị của Quân khu Tây được tổ chức thành Nhóm lực lượng Zapad và được phái tới tác chiến tại phía bắc và đông bắc Ukraina. Trước ngày 1 tháng 12 năm 2014, Quân khu Tây còn bao gồm Bộ Tư lệnh Chiến lược chung Bắc Cực, tỉnh Arkhangelsk, Murmansk Oblast, Cộng hòa Komi và Khu tự trị Nenets, cũng như Hạm đội Baltic và Hạm đội phương Bắc của Hải quân Nga, khỏi quân khu này. Nga đã công bố kế hoạch tái lập hai quân khu Moskva và Sankt-Peterburg. Các đơn vị quân sự thuộc Bộ Nội vụ, Bộ đội Biên phòng của FSB, cũng như các đơn vị của Bộ Tình trạng khẩn cấp (Nga) và các bộ, ngành khác của Liên bang Nga thực hiện nhiệm vụ trên lãnh thổ huyện nằm dưới sự phụ thuộc hoạt động của nó.
19,822,838
70630575
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822838
Shanghai Knights
Hiệp sĩ Thượng Hải (tựa gốc tiếng Anh: Shanghai Knights) là một bộ phim hài hước - hành động - võ thuật Mỹ của đạo diễn Tom Dey, trở lại với sự tham gia của Thành Long và Owen Wilson vào hai vai chính trong phim. Phim được phát hành vào năm 2003 tại Mỹ. Nội dung phim là phần tiếp theo của Trưa Thượng Hải đã phát hành vào năm 2000. Nội dung. Bộ phim lấy bối cảnh sau năm 1887, khi các quý tộc người Anh lên kế hoạch thao túng cả chính trị nước Anh và xâm lăng hoàng cung Trung Hoa. Bá tước Nelson Rathbone lấy cớ "công du" Trung Hoa huyền bí, đã cấu kết với một kẻ phản bội của hoàng tộc Mãn Thanh giấu mặt, dưới trướng là bọn lính Nghĩa Hòa Đoàn li khai. Nelson cử rất nhiều thuộc hạ giỏi võ lẻn vào Tử Cấm Thành cướp Ngọc Ấn của Hoàng Đế. Quan thị vệ Chon và con gái ông là Chon Lin chống cự dữ dội, nhưng Nelson cũng là một tay kiếm cự phách của Hoàng gia Anh Quốc. Chon cùng đội cấm vệ binh hy sinh, còn con gái ông là Chon Lin bị thương. Trước lúc lâm chung, Chon căn dặn con gái ông phải đoạt lại Ngọc Ấn bằng mọi giá, ông còn nhờ cô gửi một hộp quà kỷ niệm cho con trai lớn của mình là Chon Wang. Do trong phần 1 Chon Wang đã bỏ nhà đi Mỹ và thậm chí còn kháng chỉ, tự ý cưới công chúa Phối Phối, nên cha anh đã từ mặt anh. Cô em gái Chon Lin theo di nguyện của cha, đã gửi hộp quà đến vợ chồng Chon Wang ở Mỹ. Còn bản thân cô lặn lội đến Vuơng Quốc Anh để ám toán tên bá tước Nelson và lấy lại Ngọc Ấn, nhưng thất bại. Về phần Chon Wang, sau chiến thắng vẻ vang ở phần 1, anh gửi một phần kho báu nhờ gã bạn thân Roy O'Bannon đầu tư giúp, nhưng thay vì kinh doanh, Roy đã sử dụng sạch số tiền đó vào đầu tư văn học. Sau một thời gian, hộp quà và bức thư của Lin được đưa đến tay Chon Wang - lúc này anh đang làm cảnh sát trưởng thành phố Carson. Anh chỉ kịp vội vàng tạm biệt vợ, làm một nghi lễ tưởng nhớ người cha đã mất, rồi lên đường đến New York tìm Roy. Chon Wang muốn Roy gửi lại cho anh một ít vàng làm lộ phí để anh đến London tuơng trợ cho em gái. Nhưng Roy đã dùng hết số tiền, bản thân Roy còn phải đi làm trai bao ở một khách sạn. Cả 2 đành phải chọn cách đi tàu lậu đến London. Vừa đặt chân đến London, 2 người gặp rắc rối với một đám du đãng đường phố và một chú nhóc bụi đời ăn cắp vặt tên là Charlie Chaplin. Với võ nghệ thành thục của Chon Wang đã hạ đám du côn trong vài phút. Điều này giúp họ nhanh chóng kết bạn với thanh tra Conan Doyle, một sĩ quan cảnh sát say mê văn học trinh thám, hâm mộ Roy O'Bannon và có nhiều tài lẻ. Conan bất đắc dĩ thông báo cho họ rằng em gái Chon Lin đã ám sát bá tước Nelson bất thành, và đang bị tạm giam chờ xét xử. Wang và Roy chỉ có thể thăm Chon Lin chứ không làm được gì, và ở London trong cảnh "cháy túi", họ phải tạm thời trú ẩn ở chỗ của chú nhóc Charlie để tìm thời cơ. 2 người nắm được tin bá tước Nelson mở buổi tiệc mừng cho chuyến đi Trung Hoa vừa rồi. Hắn cử Conan làm công tác an ninh cho buổi tiệc, lợi dụng sơ hở đó Chon Lin vượt ngục, đột nhập vào tư dinh của Nelson. Về phần Wang và Roy, 2 anh cải trang thành khách mời đến buổi tiệc của Nelson rồi lẻn vào tư dinh để tìm tung tích Ngọc Ấn. Tại đây họ khám phá ra rằng Nelson còn tàng trữ rất nhiều kho báu cướp được ở đây. Kẻ tiếp tay cho Nelson chính là thế tử Châu Vũ, em trai của hoàng đế Mãn Thanh. Châu Vũ mượn tay tên bá tước trộm ngọc ấn để hắn có thể quay về Tử Cấm Thành phế truất hoàng đế. Đổi lại, Châu Vũ có được ngọc ấn, hắn sẽ giúp Nelson trừ khử các quý tộc cấp cao của Hoàng Gia Anh Quốc. Và Nelson sẽ thừa cơ thay thế nữ hoàng, trở thành nguyên thủ nước Anh. 3 người gặp nhau trong khi chạm trán với nhóm lính ngự lâm dưới trướng Nelson. Sau một hồi đánh nhau, Lin cứu Wang và Roy phóng ô tô chạy trốn. Một phần kho tàng bốc cháy, còn ngọc ấn bị Charlie lẻn vào trộm mất. Tức giận, Nelson cách chức thanh tra Conan và cử thuộc hạ Nghĩa Hòa Đoàn lùng sục tung tích của nhóm Roy. Wang và Roy đến một hộp đêm ở trọ lánh nạn, Roy thỏ thẻ rằng mình có tình cảm với Lin và Lin cũng rất thích Roy. Nhưng trong khi Roy và Wang ăn chơi thác loạn, nhóm người của Nelson đã mò đến bắt cóc được Lin. Nelson cho rằng tên nhóc trộm vặt là đồng bọn của Roy, nên đã yêu cầu Roy và Wang đổi mạng Lin lấy ngọc ấn. Không thương lượng được, Nelson dìm cả 2 xuống sông, nhưng họ đã chạy thoát. Châu Vũ tiếp tục giữ Lin làm con tin ngăn chặn Chon Wang, và dự định sẽ dựng hiện trường vu khống Chon Lin ám sát hoàng tộc trong buổi lễ bắn pháo hoa bằng một khẩu Galting Gun. 2 người trong lúc trắng tay, đã tìm đến Conan nhờ giúp đỡ. Conan bằng năng khiếu trinh thám tài giỏi đã tìm đến nơi Charlie đang trốn, nhưng họ lại bị đám thuộc hạ của Châu Vũ bám theo. Chúng đe dọa đòi Roy giao nộp ngọc ấn đổi lấy mạng Charlie, rồi tẩu thoát. Nhưng ngay sau đó cảnh sát London ập đến bắt giữ Roy, Chon Wang và Conan. Charlie đã cứu thoát cả 3, họ thoát ra ở ngay trên đường phố London, nơi rất gần buổi lễ hội pháo hoa của hoàng tộc Anh quốc. Chia tay Charlie, nhóm Roy tách làm 2: Chon Wang xuống thuyền cứu em gái Chon Lin, còn Roy dẫn Conan truy lùng bá tước Nelson. Chon Wang cứu được Lin và 2 anh em phối hợp hạ được đám thuộc hạ Nghĩa Hòa Đoàn, nhưng Châu Vũ là một cao thủ võ lâm đã đánh bại 2 anh em rất dễ dàng. Cảm thấy căm phẫn vì bị chính hoàng thân phản bội, Lin quyết định dùng rocket bắn tan xác Châu Vũ thay vì bắt sống hắn. Tuy nhiên trong lúc đánh nhau, khẩu Galting của Châu Vũ chệch hướng nên cho dù không bắn trúng nữ hoàng Anh, nó vẫn nhả đạn vào khu vực hoàng gia và gây ra náo loạn. Bá tước Nelson thừa lúc hỗn loạn đã trốn thoát vào tòa tháp Big Ben, nhưng Roy và Conan đã kịp đến nơi bắt quả tang hắn. Nelson giấu một khẩu súng mini trong tay áo, bắn Conan bị thương. 2 anh em Wang và Lin đến tiếp ứng, truy bắt Nelson. Lin tỏ tình với Roy, nhưng cô phải ở lại băng bó cho Conan đang bị thương, mà cô lại là người duy nhất có kinh nghiệm đánh nhau với Nelson. Wang cùng Roy cầm kiếm đến đánh tay bo với Nelson, cả 2 không phải là đối thủ của tên bá tước ma mãnh này. Khi lên đến tầng trên của cỗ máy đồng hồ cơ, Roy bị đạp ngã ra khỏi cửa kính (thật ra Roy vẫn còn bám vào kim phút của đồng hồ Top Ten). Wang còn tưởng anh đã chết, nên đã đồng quy vô tận tự sát chung với Nelson, cả 2 ngã ra khỏi tòa Big Ben. Nelson rơi xuống đất bỏ mạng, còn Roy tóm được Chon Wang trong đường tơ kẽ tóc. Cả 2 bị kẹt trên kim phút, quyết định ôm lá cờ Anh Quốc nhảy xuống, họ đáp vào căn phòng của nữ hoàng Anh. Cả 3 được Nữ hoàng Anh phong tặng tước hiệu cao quý cho chiến công này. Conan Doyle được khôi phục chức vị, ông nhận nhiệm vụ trao trả ngọc ấn cho vương triều Mãn Thanh, ông cũng lên ý tưởng về nhân vật Sherlock Holmes trong bộ tiểu thuyết cùng tên. Chon Wang được phong tặng tước hiệu hiệp sĩ, anh cũng mở hộp quà từ người cha quá cố và hạnh phúc mãn nguyện về gia đình. Còn Roy đã cầu hôn Lin, và với danh tiếng của anh ở Mỹ, anh quyết định đầu tư vào môn nghệ thuật thứ 7 (điện ảnh), mời Chon Wang đến Hollywood cùng tham gia.
19,822,848
784524
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822848
M163 VADS
Hệ thống M163 Vulcan Air Defense System (VADS) là một Vũ khí phòng không tự hành (SPAAG) được trang bị cho Lục quân Mỹ. Pháo M168 là một phiên bản của pháo nòng xoay M61 Vulcan cỡ nòng do General Dynamics sản xuất, đây cũng là loại pháo tiêu chuẩn trong quân đội Mỹ từ những năm 1960s, được gắn lên xe thiết giáp hoặc xe kéo. Đặc điểm kỹ thuật. Hệ thống pháo được đặt trên xe thiết giáp dựa trên M-113 với tên gọi M741. Hệ thống pháo phòng không M163 được phát triển để bổ sung cho M48 Chaparral có tầm bắn xa hơn. M163 sử dụng radar định tầm cỡ nhỏ AN/VPS-2, và kính ngắm quang học M61. Hệ thống phù hợp cho hoạt động tác chiến ban đêm với việc trang bị kính nhìn đêm series AN/PVS gắn bên phải kính ngắm chính. Tốc độ bắn của pháo đạt 3.000 viên/phút theo chế độ bắn loạt 10, 30, 60 hay 100 viên một, hoặc nó có khả năng bắn liên tục với tốc độ bắn 1.000 viên/phút. Hiệu suất. Hệ thống pháo phòng không M163 có cự ly tác xạ với đạn 20x102mm là , và đạn phòng không chuyên dụng HEI-T có khả năng tự hủy ở khoảng cách , một cự ly tương đối ngắn. Ngoài ra, radar chỉ có khả năng định tầm và không có khả năng tìm kiếm mục tiêu. Trong biên chế quân đội Mỹ và Israel, VADS ít khi được sử dụng như vai trò chính của nó-đối phó với các mục tiêu bay thấp. Thay vào đó, hệ thống pháo Vulcan từ cuối những năm 1980s và đầu những năm 1990s đã được sử dụng như là vũ khí chính hỗ trợ tấn công các mục tiêu mặt đất. VADS đã tham gia cuộc chiến tại Panama năm 1989 trong Chiến dịch Just Cause với vai trò hỗ trợ hỏa lực cho lính Mỹ. Thành tích chiến đấu của nó là đã đánh chìm tàu tuần tra của lực lượng phòng vệ Panama. Chiến dịch cuối cùng có sự tham gia của M163 VADS là chiến dịch Bão táp sa mạc. Nâng cấp và thay thế. Nhằm cung cấp một hệ thống phòng không Lục quân hiệu quả hơn và có khả năng chống lại mục tiêu như máy bay trực thăng mang tên lửa chống tăng có khả năng tấn công tầm xa hơn cự ly tác xạ của pháo, VADS dự kiến sẽ được thay thế bằng hệ thống M247 Sergeant York DIVADS (Divisional Air Defense System), tuy nhiên hệ thống này không được sản xuất do chi phí phát triển quá cao, các vấn đề về kỹ thuật và có tính năng nghèo nàn. Vào năm 1984, hệ thống VADS nâng cấp (PIVADS) (viết tắt của Product-Improved VADS) đã được giới thiệu, có hiệu suất được cải thiện đáng kể về độ chính xác và dễ dàng vận hành, nhưng vẫn sử dụng cỡ đạn 20x102 mm. Năm 1988, xe được trang bị thêm bệ phóng tên lửa vác vai Stinger cùng với hai quả đạn tên lửa. Cuối cùng, hệ thống M163 đã được quân đội Mỹ thay thế bằng hệ thống M1097 Avenger và M6 Linebacker, được phát triển dựa trên xe thiết giáp M2 Bradley với tên lửa FIM-92 Stinger thay cho tên lửa chống tăng BGM-71 TOW: tên lửa Stinger giúp kíp chiến đấu có khả năng tiêu diệt máy bay trực thăng tấn công của đối phương trước khi nó tiếp cận đủ gần để phóng tên lửa chống tăng, cũng như giúp kíp chiến đấu chống lại các máy bay cánh cố định. Đơn vị Lục quân Mỹ cuối cùng đã loại biên hệ thống phòng không dựa trên pháo Vulcan từ năm 1994. Đạn. Một số loại đạn cỡ 20x102 mm được phát triển để sử dụng trên M163. Trong đó có đạn M246 HEI-T-SD sử dụng trong vai trò phòng không, trong khi đạn M56 HEI được sử dụng trong hỗ trợ tấn công mặt đất. Trong khi hệ thống nâng cấp PIVADS có thêm đạn xuyên giáp Mk 149, có phạm vi tác xạ hiệu quả lớn hơn nhiều nhờ có vận tốc cao hơn và không có cơ chế tự hủy.
19,822,861
784524
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822861
Máy ngắm ném bom Norden
Máy ngắm ném bom Norden Mk. XV, hay còn gọi là seri Norden M trong Lục quân Mỹ, là một loại máy ngắm dùng để ném bom trang bị cho máy bay ném bom của Hải quân và Lục quân Hoa Kỳ trong chiến trang thế giới thứ 2, và cũng được quân đội Mỹ sử dụng trong chiến tranh Triều Tiên và chiến tranh Việt Nam. Đây là thiết kế thời kỳ đầu của máy ngắm ném bom, trong đó có tính vận tốc trên mặt đất của máy bay và hướng bay. Thiết kế của Norden cao cấp hơn các thiết kế trước đó nhờ sử dụng máy tính tương tự có khả năng tự động tính lại điểm chạm của quả bom dựa trên sự thay đổi của điều kiện ném bom, và còn có máy lái tự động phản ứng nhanh và chính xác đối với sự thay đổi về gió và các hiệu ứng khác. Kết hợp lại, máy ngắm bom Norden hứa hẹn có độ chính xác chưa từng có khi ném bom ban ngày từ độ cao lớn. Các thử nghiệm trước Thế chiến 2 cho thấy Norden có độ sai số vòng tròn (CEP) là . Đây là một độ chính xác đáng kinh ngạc vào thời kỳ đó. Độ chính xác của máy ngắm ném bom Norden cho phép máy bay ném bom thậm chí tấn công trực tiếp tàu chiến, nhà máy, và các mục tiêu điểm khác. Cả Hải quân và Không quân Hoa Kỳ đều nhận ra nó là trang bị không thể thiếu để có thể thực hiện thành công các cuộc ném bom từ độ cao lớn. Ví dụ một cuộc tấn công từ đường biển vào nước Mỹ sẽ bị hủy diệt từ lâu trước khi nó có thể chạm đến bờ biển nước Mỹ. Chi tiết về máy ném bom Norden được Mỹ bảo mật trong suốt những năm chiến tranh, với mức chi phí nghiên cứu/phát triển và chế tạo tương đương với dự án Manhattan: chi phí tổng thể từ nghiên cứu phát triển đến chế tạo là 1,1 tỉ đô la, bằng hơn một phần tư chi phí sản xuất máy bay ném bom B-17. Tuy vậy thông tin về máy ngắm ném bom Norden vẫn bị lọt ra bên ngoài, cả người Anh và người Đức đều phát triển các máy ngắm ném bom tương tự là SABS và Lotfernrohr 7. Thậm chí thông tin về máy ngắm Norden còn được chuyển cho Đức trước khi cuộc chiến bắt đầu. Trong điều kiện thực tế chiến đấu, máy ngắm Norden không đạt được độ chính xác như kỳ vọng, độ sai số trung bình trong năm 1943 là (tức là có 50% bom được thả rơi trong vòng bán kính 1200m xung quanh mục tiêu, tương tự như các loại máy ngắm khác sử dụng bởi đồng minh và Đức. Cả Hải quâb và Không quân Mỹ phải từ bỏ cách thức ném bom tầm cao, mà Hải quân Mỹ phải quay trở lại với kỹ thuật ném bom bổ nhào để tấn công tàu chiến của đối phương, trong khi Không quân phát triển kỹ thuật lead bomber để cải thiện độ chính xác. Thậm chí giờ đây họ phải sử dụng đội hình máy bay ném bom còn lớn hơn để tấn công rải thảm khu vực. Dù vậy, danh tiếng của máy ngắm ném bom Norden tiếp tục được duy trì và nó vẫn được sử dụng ngay cả sau khi thế chiến 2 kết thúc. Máy ngắm Norden đã dần vắng bóng sau khi ra đời máy ngắm ném bom bằng radar, nhưng nhu cầu ném bom vào ban ngày đã khiến quân đội Mỹ tiếp tục sử dụng nó, đặc biệt là trong cuộc chiến tranh Triều Tiên. Lần cuối cùng quân đooii Mỹ sử dụng máy ngắm Norden là trong việc thả các sensor xuống đường mòn Hồ Chí Minh năm 1967. Máy ngắm ném bom Norden là một trong số những máy ngắm ném bom được biết đến nhiều nhất. Lịch sử ra đời. Các nghiên cứu ban đầu. Máy ngắm ném bom Norden được thiết kế bởi Carl Norden, một kỹ sư người Hà Lan đã nhập cư vào Mỹ năm 1904. Năm 1911, Norden tham gia công ty Sperry Gyroscope và làm việc liên quan đến các bộ con quay hồi chuyển sử dụng trên tàu chiến, sau đó ông chuyển sang Hải quân và làm việc với vai trò là chuyên gia về máy phóng cho hệ thống bom bay, nhưng ông nổi tiếng hơn về kinh nghiệm đối với các con quay hồi chuyển cân bằng. Các thiết kế máy ngắm ném bom trong Thế chiến thứ nhất được các kỹ sư nhanh chóng cải tiến, với những bước tiến vượt bậc như máy ngắm Course Setting Bomb Sight, hay CSBS. Gần như tất cả máy bay của Không quân các nước đều sử dụng một vài phiên bản CSBS như là loại máy ngắm ném bom tiêu chuẩn, bao gồm cả Hải quân và Lục quân Mỹ, sử dụng phiên bản thiết kế bởi Georges Estoppey là máy ngắm D-series. Từ lâu các nhà thiết kế đã biết đến một nguyên nhân chính gây ra sai lệch trong ném bom là độ thăng bằng của máy bay ném bom. Chỉ một sự lệch nhỏ cũng có thể gây ra sự sai sót rất lớn trong ném bom, do đó Hải quân Mỹ đã bắt đầu phát triển và bổ sung bộ ổn định con quay hồi chuyển cho các thiết kế máy ngắm bom. Điều này dẫn đến việc Hải quân đặt hàng các máy ngắm ném bom Estoppey, Inglis (liên doanh với Sperry) và Seversky C-series bomb sight. Norden được yêu cầu chế tạo bộ phận ổn định bổ sung cho thiết kế máy ngắm ném bom trước đó của Hải quân Mỹ là Mark III.
19,822,863
925152
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822863
Giải vô địch bóng rổ thế giới 2023 (Bảng A)
Bảng A là một trong tám bảng đấu trong giai đoạn vòng bảng của Giải vô địch bóng rổ thế giới 2023, diễn ra từ ngày 25 đến ngày 29 tháng 8 năm 2023, bao gồm các đội Angola, Cộng hòa Dominica, Philippines và Ý, trong đó Angola, Philippines và Ý từng nằm chung bảng với nhau tại giai đoạn vòng bảng giải đấu trước. Mỗi đội thi đấu vòng bảng theo thể thức vòng tròn một lượt tính điểm, mỗi đội gặp nhau đúng 1 lần duy nhất, tất cả các trận đấu của bảng diễn ra tại Đấu trường Araneta, Thành phố Quezon, Philippines. Hai đội đứng đầu bảng sẽ giành vé vào vòng 2, còn 2 đội cuối bảng sẽ phải thi đấu vòng phân hạng 17–32. Sau khi thay đổi địa điểm cho các trận đấu thuộc giai đoạn cuối cùng của giải đến SM Mall of Asia Arena tại Pasay, FIBA quyết định 2 trận đấu đầu tiên của bảng sẽ diễn ra tại Philippine Arena ở Bocaue, Bulacan, địa điểm ban đầu diễn ra các trận đấu thuộc giai đoạn cuối cùng. Các trận đấu. "Tất cả các trận đấu được diễn ra theo (UTC+8)."
19,822,872
912316
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822872
Utagoe kissa
đề cập đến một hình thức quán cà phê mà trong đó, khách hàng tham gia cùng hát với nhau, điều rất phổ biến tại Nhật Bản vào những năm khoảng 1955–1975. "Utagoe kissa" cũng thường đề cập đến cuộc vận động cánh tả vào thời điểm đó, được gọi là phong trào Utagoe, được giúp đỡ bởi các các công đoàn lao động, chống đỡ bởi các đảng phái chủ nghĩa xã hội và cộng sản. Những bài hát được thể hiện, do đó, thông thường là những bài ca phản động, kháng chiến, bao gồm nhiều bài hát có nguồn gốc từ Nga, Đông Âu và Trung Quốc. Hầu hết các "Utagoe kissa" đều đã dừng kinh doanh khoảng những năm 1995–2005, mở đường cho các quán karaoke trở thành một ngành kinh doanh lớn những năm 1980, nhưng vẫn có hai hoặc ba quán "Utagoe kissa" vẫn còn tồn tại ở Tokyo, ví dụ như Tomoshibi.
19,822,875
383003
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822875
Srettha Thavisin
Srettha Thavisin (tiếng Thái: เศรษฐา ทวีสิน, , ; sinh ngày 15 tháng 2 năm 1963), biệt danh Nid (tiếng Thái: นิด, , )), là một chính trị gia và nhà phát triển bất động sản người Thái Lan, hiện đang giữ chức Thủ tướng Thái Lan từ ngày 22 tháng 8 năm 2023 sau cuộc bỏ phiếu của hai viện Quốc hội. Ông là cựu giám đốc điều hành và chủ tịch của Sansiri. Tiểu sử và học vấn. Srettha Thavisin sinh ngày 15 tháng 2 năm 1962 ở Bangkok, Thái Lan. Sinh ra trong một gia đình giàu có, ông là con trai duy nhất của đại úy Amnuay Thavisin và Chodchoi Jutrakul. Srettha có mối quan hệ với 5 gia tộc kinh doanh người Thái gốc Hoa: Yip in Tsoi, Chakkapak, Jutrakul, Lamsam và Buranasiri. Ông đã hoàn thành chương trình giáo dục tiểu học tại Trường Trình diễn Prasarnmit của Đại học Srinakharinwirot ở Bangkok. Trước khi đến Hoa Kỳ, ông đã nhận bằng cử nhân về kỹ thuật dân dụng của Đại học Chulalongkorn. Sau đó ông tốt nghiệp cử nhân kinh tế ở Đại học Massachusetts. Ông đã nhận bằng thạc sĩ quản trị kinh doanh ngành tài chính tại Đại học Claremont. Sự nghiệp. Được đào tạo tại Hoa Kỳ, ông đồng sáng lập Sansiri vào năm 1988, công ty sau này trở thành một trong những nhà phát triển bất động sản lớn nhất Thái Lan, đưa Srettha trở thành ông trùm bất động sản. Năm 2022, ông gia nhập đảng Pheu Thai và tranh cử với tư cách là một trong những ứng cử viên của đảng này cho chức Thủ tướng trong cuộc tổng tuyển cử năm 2023, với đảng này đứng thứ hai sau Đảng Tiến lên. Tuy nhiên, Tiến lên và ứng cử viên Pita Limjaroenrat không giành được đủ phiếu bầu từ quốc hội, Pheu Thai sau đó trở thành đảng dẫn đầu đề cử ứng cử viên, thành lập liên minh mới với các đảng bảo thủ hơn. Srettha đã nhiều lần được Pheu Thai, các chính trị gia và giới truyền thông mô tả là người có nhiều khả năng được Pheu Thai đề cử nhất, cuối cùng tuyên bố mình sẵn sàng trở thành thủ tướng nếu được đảng chọn vào ngày 19 tháng 7. Ông dự kiến sẽ được đề cử vào ngày 22 tháng 8 khi quốc hội bỏ phiếu. Ông được biết đến là bạn tâm giao của cả Thaksin Shinawatra và Yingluck Shinawatra, cựu thủ tướng Thái Lan, đồng thời là một trong ba ứng cử viên thủ tướng của Đảng Pheu Thai cùng với con gái út của Thaksin, Paetongtarn Shinawatra, và cựu Bộ trưởng Tư pháp Chaikasem Nitisiri vào năm 2023 trong đợt Tổng tuyển cử Thái Lan năm 2023.
19,822,883
889492
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822883
Sei Bishōjo Figyua Den
là một bộ phim drama Nhật Bản kỳ ảo hài hước, đạo diễn bởi Toshiro Goto và phát hành năm 2006 bởi VAP. Nó là một phần của bộ ba tập phim "Moekyun@Movie" xoay quanh văn hoá otaku và cosplay Akihabara. Bộ phim được phân phối tại Hoa Kỳ bởi Asia Pulp Cinema. Bối cảnh. Ryōta, một nhà sưu tầm mô hình nhân vật, nhận được một chiếc hộp với các bộ phận búp bê từ một cửa hiệu bí ẩn ở Akihabara. Sau khi lắp ráp và điều chỉnh chúng, chiếc búp bê hoá thân một cách kỳ diệu thành một người con gái thứ thiệt, giống như android, có tên là Airu. Sau khi tìm hiểu làm thế nào để nói chuyện một cách tự nhiên hơn, Airu tìm thấy một bức ảnh bạn gái cũ Yuria của Ryōta và cố gắng hiểu xem những gì đã diễn ra trong quá khứ của họ.
19,822,887
889492
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822887
Moekyun@Movie
là một chuỗi các bộ phim được thực hiện tại Akihabara, Tokyo, Nhật Bản. Bối cảnh của các bộ phim xoay quanh văn hoá cosplay và otaku, liên hệ với địa điểm quay phim, với các chủ đề như maid café và việc sưu tầm các mô hình action. Chuỗi phim được sản xuất bởi VAP, và nhà phân phối Asia Pulp Cinema đã phát hành bộ ba phim trên đĩa DVD tại Hoa Kỳ.
19,822,897
918834
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822897
Nước thải đô thị
Nước thải đô thị là nước mưa, nước tưới cảnh quan và nước rửa xe chảy ra từ các con đường, bãi đậu xe và vỉa hè trong các thành phố và khu đô thị. Đây là kết quả của quá trình đô thị hóa, khi các bề mặt không thấm nước như đường, bãi đậu xe và vỉa hè được xây dựng trong quá trình phát triển khu đất. Khi mưa, bão hoặc các sự kiện mưa khác xảy ra, nước mưa được đẩy trôi trên các bề mặt này (được làm từ vật liệu như bê tông và nhựa đường), cùng với nước từ mái nhà, trôi vào các ống thoát nước mưa thay vì được hấp thụ vào đất. Dẫn đến việc giảm mực nước ngầm (vì khả năng hấp thụ nước ngầm giảm) và gây lũ lụt do lượng nước trên bề mặt tăng lên. Hầu hết hệ thống xử lý nước thải của các thành phố xả nước mưa không qua quá trình xử lý ra các con kênh, sông và vịnh. Nước thải này cũng có thể tràn vào các tài sản của người dân qua việc ngập lụt tầng hầm và thấm qua tường và sàn nhà. Nước thải đô thị có thể gây ra nguy cơ lũ lụt và ô nhiễm nước lớn tại các khu đô thị trên toàn cầu.
19,822,903
912316
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822903
Nhà hàng Cosplay
là các nhà hàng theo chủ đề và quán pub có nguồn gốc từ Akihabara, Tokyo, Nhật Bản, vào khoảng cuối những năm 1990 và đầu những năm 2000. Chúng bao gồm và , nơi các nhân viên phục vụ vận y như những người hầu gái thanh tao, hoặc quản gia. Nhân viên sẽ đối xử với khách hàng như những "chủ nhân" và "cô chủ" trong một ngôi nhà riêng thay vì chỉ là khách hàng quán cà phê thông thường. Những quán cà phê và nhà hàng như vậy nhanh chóng trở thành một yếu tố quan trọng trong văn hoá otaku Nhật Bản. Mức độ nổi tiếng của các nhà hàng cosplay và quán cà phê hầu gái đã lan toả sang các khu vực khác trong Nhật Bản, ví dụ như Den Den Town của Osaka cũng như những nơi khác ngoài Nhật Bản, ví dụ như Hồng Kông, Đài Loan, Singapore, México, Canada, và Philippines. Đặc điểm. Café hầu gái. Trong một quán cà phê hầu gái thông thường, các nữ nhân viên mặc trang phục hầu gái Pháp (đôi khi, các cô hầu gái có thể đeo tai thỏ hoặc tai mèo để tạo thêm sự đáng yêu) và gọi khách hàng là hoặc . Khi bước vào tiệm cửa hàng như vậy, khách hàng thường được chào đón bằng cách nói , được cung cấp khăn lau tay và thực đơn đồ ăn thức uống. Các món ăn phổ biến bao gồm bánh (đôi khi do chính các cô gái hầu gái tự nướng), kem, omurice, mì spaghetti, cũng như thức uống như Coca-Cola, trà, sữa hoặc đồ uống có cồn như bia, hoặc trong một số trường hợp, thậm chí là rượu sâm banh. Các tùy chọn (dịch vụ) khác bao gồm chụp ảnh polaroid (hoặc chỉ có một mình cô hầu gái, hoặc cùng với cô hầu gái khác hoặc cùng với khách hàng, sau đó ảnh sẽ được trang trí bằng bút dạ hoặc sticker dán màu), chơi bài, trò chơi điện tử và/hoặc thậm chí những dịch vụ còn lạ lùng hơn, chẳng hạn như bị "vả" bởi một hoặc nhiều cô hầu gái. Có một loạt các cơ sở phục vụ tuỳ theo những sở thích cụ thể và cung cấp dịch vụ khác nhau cho khách hàng. Gần đây, với sự bùng nổ của thị trường quán cà phê hầu gái, các dịch vụ liên quan cũng trở nên phổ biến. Trong đó bao gồm , mát-xa chân hoặc tay, các phiên chụp ảnh (khách hàng thường thuê thời gian tại studio, trong thời gian đó họ có thể yêu cầu cô hầu gái mặc trang phục nào và đứng như thế nào) hoặc thậm chí "hẹn hò" với các cô hầu gái. Cùng với sự phổ biến của các quán cà phê hầu gái, một số các ngành kinh doanh khác cũng theo đuổi. Chỉ riêng tại Akihabara đã có thể tìm thấy nhiều tiệm mát-xa hợp pháp, cửa hàng mắt kính hầu gái và ít nhất một quán izakaya cosplay/hầu gái. Café quản gia. Trong khi hầu hết các nhà hàng cosplay và các quán cà phê hầu gái phục vụ chủ yếu cho nam giới, cũng có một hình thức dành cho phụ nữ được gọi là . Các quản gia trong những quán cà phê này là những nam nhân viên ăn mặc đẹp và có thể mặc đồng phục phục vụ thông thường hoặc thậm chí là áo tuxedo hoặc áo đuôi tôm. Cũng có quán cà phê quản gia có nhân viên phục trang cosplay như những nam sinh thiếu niên, với mục tiêu thu hút các "fujoshi" (người hâm mộ thể loại Boys' Love). Cũng có những quán cà phê quản gia có phong cách trang phục , trong đó các nữ nhân viên mặc đồng phục nam quản gia thay vì là nam giới thực sự. Các hình thức khác. Trong những cửa hàng khác, các bộ y phục và kể cả bối cảnh cũng tự nó thay đổi. Trong các quán cà phê chủ đề trường học, các khách hàng được gọi là các "senpai" thay vì "Chủ nhân" hoặc "Cô chủ". Bên trong quán, các bàn ghế thông thường được thay thế bằng bàn ghế học đường và menu cũng được phục vụ trong các khay giống như những khay ăn trong trường học Nhật Bản. Các chủ đề khác bao gồm, , hoặc quán cà phê/izakaya . Café mèo hầu gái. Một hình thức phụ của quán cà phê hầu gái là quán cà phê mèo hầu gái. Các nữ phục vụ trong các quán cà phê này đeo tai mèo và đuôi cũng như thường làm các động tác giống mèo như kêu meo meo hoặc kết thúc câu với tiếng meo. Thêm vào đó, đồ ăn cũng thường được chuẩn bị theo các hình thù con mèo hoặc mèo con. Café Tsundere. Những quán cà phê này có tất cả các đặc điểm của một quán cà phê hầu gái thông thường nhưng với việc bổ sung chủ đề tính cách. Chủ đề mà mọi người hầu gái thường được đặt cho là "tsundere". Theo đó, người phục vụ trong các quán cà phê này thường sẽ cư xử bất lịch sự hoặc lãnh cảm với khách hàng. Thêm vào đó, một số quán cà phê như vậy còn cho phép khách quen yêu cầu những dịch vụ đặc biệt, thường là những hành động động chạm như quẹt tay vào trán. Bắc Mỹ. Một quán cà phê hầu gái được mở ở miền tây là quán "i maid cafe" tại Scarborough, Ontario, và được giới thiệu trên tạp chí thông tin của CBC, "The Hour." Quán cà phê đã đóng cửa vào tháng 11 năm 2007 do quản lý thất bại trong việc trả tiền thuê mặt bằng. Vào tháng 12 năm 2007, Royal-T đã mở tại Culver City, California, và quán đã được giới thiệu trên nhiều tạp chí, ví dụ như "Elle và Los Angeles Times." Nó là sự kết hợp giữa café hầu gái, cửa hàng và phòng trưng bày nghệ thuật. Cửa hàng đã đóng sau 5 năm. Vào tháng 9 năm 2008, một chuỗi kinh doanh Nhật Bản "Crepe House Uni" đã mở quán tại Davis, California, những đã đóng vào năm 2010. Các nhân viên mặc đồng phục hầu gái, nhưng nó không thực sự là quán cà phê hầu gái. Năm 2012, một quán cà phê hầu gái mang tên "Chou Anime" được mở tại quận Midtown của thành phố Detroit, Michigan. Thông tin về quán cà phê có thể được tìm thấy trên trang web của họ. Chou Anime chính thức đóng cửa vào thứ bảy, ngày 22 tháng 9 năm 2012, do không nhận được lưu lượng khách hàng ổn định. Vào ngày 18 tháng 8 năm 2013, "Maid Cafe NY" đã mở cửa tại New York City, New York. Ngoài việc phục vụ đồ ăn, cửa hàng cũng cung cấp kinh doanh một số đồ dùng cosplay và giải trí nhạc sống. Nó đã đóng cửa vào tháng 3 năm 2015 do không thể giữ vị trí mặt bằng trong khu phố Trung Hoa Chinatown và không thể tìm được mặt bằng mới.
19,822,905
721305
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822905
Zubiarraín
Jesús María Zubiarraín Arguiñano hay Zubiarraín (22 tháng 9 năm 1945 – 1 tháng 6 năm 1993) là một thủ môn người Tây Ban Nha. Zubiarrain bắt đầu sự nghiệp tại Real Sociedad năm 1966. Ông chơi cho Atlético Madrid từ năm 1969 đến năm 1973, cùng với đội vô địch La Liga vào năm 1970 và năm 1973 cũng như Copa del Rey năm 1972.
19,822,906
925152
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822906
Giải vô địch bóng rổ thế giới 2023 (Bảng B)
Bảng B là một trong tám bảng đấu trong giai đoạn vòng bảng của Giải vô địch bóng rổ thế giới 2023, diễn ra từ ngày 26 đến ngày 30 tháng 8 năm 2023, bao gồm các đội Nam Sudan, Serbia, Trung Quốc và Puerto Rico, trong đó Serbia và Puerto Rico từng nằm chung bảng với nhau tại vòng 2 giải đấu trước. Mỗi đội thi đấu vòng bảng theo thể thức vòng tròn một lượt tính điểm, mỗi đội gặp nhau đúng 1 lần duy nhất, tất cả các trận đấu của bảng diễn ra tại Đấu trường Araneta, Thành phố Quezon, Philippines. Hai đội đứng đầu bảng sẽ giành vé vào vòng 2, còn 2 đội cuối bảng sẽ phải thi đấu vòng phân hạng 17–32. Các trận đấu. "Tất cả các trận đấu được diễn ra theo (UTC+8)."
19,822,909
70590657
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822909
Chu Châu (diễn viên)
Chu Châu (; sinh ngày 19 tháng 7 năm 1984) là một diễn viên, ca sĩ Trung Quốc. Cô trở nên nổi tiếng với tư cách là một VJ trên MTV Trung. Cuộc đời và sự nghiệp. Chu Châu được sinh ra ở Bắc Kinh vào ngày 19 tháng 7 năm 1984, cô xuất thân trong gia đình trâm anh thế phiệt. Ông nội Chu Châu là thiếu tướng quân đội còn cha là doanh nhân thành đạt, chủ tịch 1 tập đoàn hàng đầu Bắc Kinh. Chu Châu bắt đầu học piano từ năm 3 tuổi. Khi còn là học sinh trung học cơ sở, cô đã biểu diễn "Người đẹp và Quái vật". Chu Châu tốt nghiệp Đại học Kinh doanh và Công nghệ Bắc Kinh, nơi cô theo học chuyên ngành kỹ thuật thông tin và điện tử.
19,822,912
878555
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822912
Tiropita
Tiropita hoặc tyropita (tiếng Hy Lạp: τυρóπιτα, nghĩa là "bánh pho mát") là một món bánh pastry trong ẩm thực Hy Lạp, được làm từ các lớp bánh filo bơ và chứa đầy hỗn hợp pho mát và trứng. Nó được phục vụ ở dạng gói tự do có kích thước riêng lẻ hoặc dưới dạng một chiếc bánh lớn hơn được chia thành nhiều phần. Khi được làm bằng pho mát kasseri, nó có thể được gọi là "kasseropita" (). Một biến thể của món ăn này là một loại bánh chứa đầy rau chân vịt và pho mát, được gọi là spanakopita. Lịch sử. Theo một số học giả, người ta cho rằng trong nền ẩm thực Hy Lạp cổ đại, bánh placenta (hoặc "plakous", πλακοῦς), và hậu duệ của nó trong ẩm thực của Đế quốc Đông La Mã, "plakountas tetyromenous" (πλακούντας τετυρομένους, "bánh placenta ngập pho mát") và "en tyritas plakountas" (εν τυρίτας πλακούντας, "bánh placenta kèm pho mát"), đều là tổ tiên của món bánh "tiropita" ngày nay. Một công thức được ghi lại trong cuốn sách "De Agri Cultura" của Cato Trưởng lão năm 160 TCN mô tả placenta như một món ăn pho mát nhiều lớp ngọt ngào: Định hình "placenta" như sau: đặt một hàng "tracta" dọc theo toàn bộ chiều dài của bột cơ bản. Sau đó phủ hỗn hợp [phô mai và mật ong] từ vữa lên. Đặt một hàng "tracta" khác lên trên và tiếp tục làm như vậy cho đến khi sử dụng hết pho mát và mật ong. Kết thúc bằng một lớp "tracta"... đặt placenta vào lò nướng và đậy nắp đã làm nóng trước lên trên [...] Khi đã sẵn sàng, mật ong được đổ lên trên placenta. Placenta vẫn là tên của một loại bánh nướng phẳng có chứa pho mát trong tiếng Aromania (plãtsintã) và tiếng România (plăcintă). Các nguồn khác nói rằng nguồn gốc của các món ăn nhiều lớp như tiropita có thể bắt nguồn từ bánh mì chiên nhiều lớp được phát triển bởi người Turk ở Trung Á trước khi họ di cư về phía Tây, tới Tiểu Á cuối thời Trung Cổ. "Tyropatinum" cổ đại được mô tả bởi Apicius, mặc dù có tên giống nhau, nhưng là một loại kem sữa trứng ngọt ngào không có vỏ.
19,822,917
827006
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822917
Tsuneko Okazaki
Tsuneko Okazaki (岡崎 恒子, "Okazaki Tsuneko" , sinh ngày 7 tháng 6 năm 1933) là nhà tiên phong người Nhật Bản về sinh học phân tử được biết đến với công trình sao chép DNA và đặc biệt là phát hiện ra các đoạn Okazaki , cùng với chồng Reiji .  Tiến sĩ Tsuneko Okazaki tiếp tục tham gia vào lĩnh vực học thuật, đóng góp vào nhiều tiến bộ hơn trong nghiên cứu DNA. Cuộc sống và giáo dục sớm [ chỉnh sửa ]. Tsuneko Okazaki sinh năm 1933 tại Nagoya , thủ phủ của tỉnh Aichi của Nhật Bản.  Cô tốt nghiệp trường trung học phổ thông Asahigaoka thuộc tỉnh Aichi . Trong những năm đại học, cô theo học ngành sinh vật học tại Trường Khoa học Đại học Nagoya.  Bà tốt nghiệp Tiến sĩ tại Trường Khoa học Đại học Nagoya năm 1956,  cũng là năm bà gặp chồng mình, Reiji Okazaki. Họ kết hôn cùng năm đó và ngay sau đó, họ tham gia công việc nghiên cứu và phòng thí nghiệm của mình. Công việc dẫn đến và khám phá ra các đoạn Okazaki [ chỉnh sửa ]. Nghiên cứu ban đầu của Tsuneko và Reiji Okazaki bao gồm nghiên cứu quá trình tổng hợp DNA và các đặc điểm nucleotide cụ thể trong trứng ếch và nhím biển.  Công trình này đã dẫn đến việc phát hiện ra thymidine-diphosphate rhamnose, một nucleotide liên kết với đường, sau đó mở ra cánh cửa cho họ làm việc ở Hoa Kỳ. Họ đã làm việc tại Đại học Washington và Đại học Stanford trong phòng thí nghiệm của JL Strominger và Arthur Kornberg tương ứng, nơi có nhiều nguồn lực sẵn có hơn để tiếp tục nghiên cứu của họ.  Nhiều năm sau, sau nhiều nghiên cứu được thực hiện ở cả Hoa Kỳ và Nhật Bản, vào năm 1968, Tsuneko và Reiji đã công bố những phát hiện mang tính đột phá của họ về các mảnh Okazaki trong "PNAS" . Sau cái chết sớm của Reiji Okazaki vì bệnh bạch cầu do nguyên nhân ở Hiroshima vào năm 1975, Tsuneko tiếp tục nghiên cứu của mình và chuyển sang chứng minh cấu trúc của đoạn mồi RNA liên kết với các đoạn Okazaki. Đóng góp nghiên cứu bổ sung [ chỉnh sửa ]. Tsuneko vẫn tiếp tục tham gia vào các dự án nghiên cứu khác nhau cho đến ngày nay, chủ yếu là điều tra các khía cạnh khác nhau của DNA. Cô đã từng là trưởng phòng thí nghiệm, lãnh đạo giám sát học tập của sinh viên và là một người đóng góp trí tuệ quan trọng. Cụ thể, những đóng góp của cô là nghiên cứu về việc tiết lộ hGCMa như một chất điều hòa phiên mã đặc hiệu cho nhau thai, có thể liên quan đến sự biểu hiện của nhiều gen đặc hiệu cho nhau thai. Cô đã đóng góp vào nghiên cứu về protein B tâm động của con người được phát hiện có tác dụng tạo ra sự định vị tịnh tiến của các nhiễm sắc thể trên các chuỗi vệ tinh α.  Cô ấy đã nghiên cứu để tìm hiểu quy định về gen của HLA-G và sự hiện diện của chất ức chế gen LINE1 có thể giải thích sự biểu hiện hạn chế của HLA-G như thế nào. Bà cũng góp phần nghiên cứu trên chuột mang đặc điểm của hội chứng down nhằm tìm hiểu đặc điểm kiểu gen-kiểu hình của hội chứng down ở người. Sự tham gia nghề nghiệp [ chỉnh sửa ]. Tsuneko là phó giáo sư về sinh học phân tử tại Trường Khoa học thuộc Đại học Nagoya từ năm 1967 đến năm 1983. Bà giữ chức vụ này cho đến khi trở thành giáo sư chính từ năm 1983 đến năm 1997. Năm 1997, bà chuyển đến Viện Khoa học Y tế Toàn diện, Fujita. Đại học Y tế, nơi bà làm giáo sư trong 5 năm và sau đó trở thành giáo sư thỉnh giảng cho đến năm 2008. Ngoài ra, trong suốt những năm 2004 đến 2007, công việc chính của bà là ở văn phòng Stockholm, nơi bà là giám đốc của Hiệp hội Nghiên cứu và Phát triển Nhật Bản. Khuyến khích Khoa học. Cô cũng là Giám đốc điều hành/chủ tịch và giám đốc của Chromo Research Inc. từ năm 2008 đến năm 2015. Cuộc sống gia đình [ chỉnh sửa ]. Năm 1963, sau khi cùng chồng trở về sau khi thực hiện nghiên cứu tại Đại học Washington và Stanford, Tsuneko có đứa con đầu lòng. Sau đó, cô sinh đứa con thứ hai vào năm 1973. Do thiếu nhà trẻ ở Nhật Bản vào thời điểm đó, Tsuneko gặp khó khăn trong việc tìm kiếm sự giúp đỡ để chăm sóc con cái vì cô đang làm việc toàn thời gian cho nghiên cứu của mình. Cô ấy là một phần của chiến dịch công dân, nơi cô ấy tuần hành để có thêm hỗ trợ chăm sóc trẻ em.  Reiji Okazaki qua đời năm 1975, nhưng Tsuneko vẫn tiếp tục làm việc để hoàn thành nghiên cứu mà họ đang thực hiện. Sự công nhận [ chỉnh sửa ]. Tsuneko đã được trao Giải thưởng L'Oréal-UNESCO dành cho Phụ nữ trong Khoa học năm 2000. Cô cũng được trao Huân chương Dải băng tím năm 2000, Huân chương Báu vật thiêng liêng, [và] Tia vàng với dải băng cổ năm 2008. Vào năm 2015, Đại học Nagoya đã thành lập Giải thưởng Tsuneko và Reiji Okazaki, "để tôn vinh tinh thần và di sản của Giáo sư Okazaki". Năm 2015, bà được bầu là Nhân vật văn hóa . Năm 2021, bà được nhận Huân chương Văn hóa .
19,822,920
827006
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822920
Sam Surridge
Samuel William Surridge (sinh ngày 28 tháng 7 năm 1998) là một cầu thủ bóng đá người Anh thi đấu ở vị trí tiền đạo cho câu lạc bộ MLS Nashville SC .  Trong thời gian ở AFC Bournemouth , anh ấy đã dành thời gian cho mượn ở Weymouth , Poole Town , Yeovil Town , nơi anh ấy đã có trận ra mắt tại Football League , Oldham Athletic và Swansea City . Sự nghiệp câu lạc bộ [ chỉnh sửa ]. Sự nghiệp ban đầu [ chỉnh sửa ]. Surridge sinh ra ở Slough , Berkshire và chuyển đến Ferndown , Dorset khi mới 7 tuổi.  Anh gia nhập học viện AFC Bournemouth ở tuổi 14 từ câu lạc bộ địa phương Bournemouth Sports. AFC Bournemouth [ chỉnh sửa ]. Surridge trở lại học viện Cherries khi anh gia nhập đội U15 và sớm nhận được học bổng, ghi bàn miễn phí cho đội trẻ của câu lạc bộ, trước khi gây ấn tượng trong thời gian cho mượn hiệu quả với Poole Town trong mùa giải đầu tiên của họ ở National South vào mùa giải 2016/17 . Cho mượn League Two và ra mắt Premier League [ chỉnh sửa ]. Vào ngày 3 tháng 8 năm 2017, Surridge gia nhập câu lạc bộ League Two Yeovil Town dưới dạng cho mượn đến cuối mùa giải.  Surridge ra mắt Liên đoàn bóng đá với tư cách là cầu thủ vào sân thay người ở hiệp hai cho Yeovil trong trận gặp Luton Town , vào ngày 5 tháng 8 năm 2017.  Anh ghi bàn thắng đầu tiên cho Yeovil trong trận hòa EFL Trophy trước Exeter City vào ngày 29 tháng 8 năm 2017.  Surridge kết thúc mùa giải với Yeovil đã ghi 10 bàn sau tổng cộng 53 lần ra sân trên mọi đấu trường cho câu lạc bộ. Vào ngày 30 tháng 7 năm 2018, Surridge gia nhập câu lạc bộ League Two Oldham Athletic theo hợp đồng cho mượn kéo dài một mùa giải.  Năm bàn thắng sau bốn trận đấu trong tháng 9 đã giúp anh ấy giành được danh hiệu Cầu thủ xuất sắc nhất tháng của Liên đoàn,  và đến ngày 6 tháng 1, anh ấy đã có 12 bàn thắng sau 20 lần ra sân trên mọi đấu trường. Surridge ghi bàn vào lưới đối thủ Premier League ở vòng ba FA Cup , ghi một quả phạt đền khi Oldham từ phía sau đánh bại Fulham 2-1.  Sau đó, anh ấy được câu lạc bộ mẹ gọi lại vào đầu tháng Giêng. Surridge có trận ra mắt Premier League cho Cherries trong trận thua 5–1 trước Arsenal vào ngày 28 tháng 2 năm 2019, thay thế Ryan Fraser ở phút thứ 80.  14 tháng 5 năm 2019, sau thời gian cho mượn hiệu quả tại Oldham Athletic và có trận ra mắt Premier League cho câu lạc bộ trước Arsenal. Cho Swansea City mượn và Đột phá ở đội một [ chỉnh sửa ]. Vào ngày 6 tháng 8 năm 2019, câu lạc bộ Championship Swansea City đã ký hợp đồng với Surridge trong một hợp đồng cho mượn kéo dài một mùa giải.  Anh ghi bàn thắng đầu tiên cho Swansea trong chiến thắng 3–1 trên sân khách trước Queens Park Rangers vào ngày 21 tháng 8 năm 2019  trước khi được AFC Bournemouth gọi lại vào ngày 1 tháng 1 năm 2020 .  Surridge kết thúc mùa giải với Swansea đã ghi 7 bàn sau 23 lần ra sân trên mọi đấu trường cho câu lạc bộ. Surridge ký hợp đồng mới với Cherries vào đầu tháng 1 năm 2020, một hợp đồng có thời hạn 4 năm rưỡi sẽ giữ anh ở lại câu lạc bộ cho đến mùa hè năm 2024. Anh ghi bàn thắng chuyên nghiệp đầu tiên cho Cherries vào năm  . vòng 4 FA Cup, với bàn thắng muộn vào lưới Arsenal trong trận thua 2-1 vào ngày 27 tháng 1 năm 2020.  được cho là đã ghi bàn thắng đầu tiên ở Premier League cho câu lạc bộ, gỡ hòa 1-1 ở trận áp chót của mùa giải 2019–20 gặp đối thủ bờ biển phía nam Southampton . Tuy nhiên, VAR đã loại trừ tình huống này do đồng đội Callum Wilson cho rằng đã ở thế việt vị. Trận đấu kết thúc với tỷ số 2–0 nghiêng về Southampton. Surridge được huấn luyện viên Mark Molesley của Cherries mô tả là ví dụ hoàn hảo cho việc cho mượn cầu thủ ở các câu lạc bộ không thuộc liên đoàn về cách đạt điểm cao, trích dẫn những thành công của anh ấy trong thời gian cho mượn ở cấp độ không thuộc liên đoàn và các câu lạc bộ thuộc liên đoàn bóng đá như Yeovil, Oldham và Swansea như là bằng chứng cho việc Surridge "leo lên thang và kiếm được sọc". Stoke City [ chỉnh sửa ]. Vào ngày 4 tháng 8 năm 2021, Surridge gia nhập Stoke City theo hợp đồng 4 năm với mức phí không được tiết lộ.  Surridge ghi bàn thắng quyết định trong trận ra mắt ba ngày sau đó trong trận đấu trên sân nhà với Reading .  Anh ghi bàn trong hai vòng đầu tiên của EFL Cup trước Fleetwood Town và Doncaster Rovers cũng như trong giải đấu với Barnsley .  Sau đó, anh không ghi được bàn thắng nào trong 15 lần ra sân tiếp theo và bị đuổi khỏi sân trong trận gặp Peterborough United sau một pha tranh chấp với Josh Knight . Anh ấy được phép rời Stoke vào kỳ chuyển nhượng tháng Giêng chỉ sáu tháng sau khi được huấn luyện viên Michael O'Neill gia nhập , người đã nói rằng Surridge đã phải vật lộn để hòa nhập vào đội. “Anh ấy đã có một khởi đầu tốt, ghi bàn trong trận ra mắt và những trận đấu đầu tiên rất hứa hẹn nhưng phong độ của anh ấy sa sút một chút sau đó và tôi nghĩ nhìn chung anh ấy đã phải vật lộn để ổn định ở câu lạc bộ. Đôi khi điều đó cũng xảy ra”. Nottingham Forest [ chỉnh sửa ]. Vào ngày 31 tháng 1 năm 2022, Surridge gia nhập Nottingham Forest với mức phí không được tiết lộ.  Phí chuyển nhượng được báo cáo là 2,2 triệu bảng.  Anh ra mắt câu lạc bộ vào ngày 6 tháng 2, vào sân từ băng ghế dự bị ở phút 71 trong chiến thắng 4–1 trên sân nhà trước đội bóng Premier League Leicester City ở vòng 4 FA Cup.  Vào ngày 7 tháng 3, ở vòng tiếp theo của giải đấu, Surridge ghi bàn thắng đầu tiên cho Forest, trong chiến thắng 2-1 trên sân nhà trước Huddersfield Town .  Trong nửa sau của mùa giải 2021–22, Surridge ghi 7 bàn sau 20 lần ra sân cho Forest ở Championship, giúp câu lạc bộ thăng hạng lên Premier League thông qua vòng play-off. Mùa giải tiếp theo , với Nottingham Forest ở Premier League, Surridge đã có 20 lần ra sân ở giải đấu, trong đó chỉ có 1 lần đá chính. Anh ấy chỉ ghi được 1 bàn thắng ở giải đấu, vào ngày 21 tháng 1 năm 2023, trong trận hòa 1-1 trên sân khách trước Bournemouth. Nashville SC [ chỉnh sửa ]. Vào ngày 25 tháng 7 năm 2023, đội bóng của Giải bóng đá nhà nghề Nashville SC thông báo về việc ký hợp đồng với Surridge với tư cách là Cầu thủ được chỉ định , với mức phí được báo cáo là 6,5 triệu đô la (khoảng 5 triệu bảng Anh). Tiền đạo này ký hợp đồng đến năm 2026, kèm theo tùy chọn gia hạn đến mùa giải 2027. Sự nghiệp quốc tế [ chỉnh sửa ]. Vào ngày 8 tháng 10 năm 2019, Surridge nhận được cuộc gọi đầu tiên vào đội U21 Anh ,  và có trận ra mắt ghi bàn trong trận hòa 2–2 trước Slovenia ở Maribor vào ngày 11 tháng 10 năm 2019. Danh hiệu [ chỉnh sửa ]. Nottingham Forest Nashville SC Cá nhân
19,822,927
912316
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822927
Diphylleia
Diphylleia là danh pháp khoa học của một chi thực vật có hoa trong họ Berberidaceae. Năm 2018, Maarten Joost Maria Christenhusz và James W. Byng gộp nó vào chi "Podophyllum", và hiện nay World Flora Online và Plants of the World Online coi nó là đồng nghĩa muộn của "Podophyllum". Các loài. Khi được công nhận, chi này gồm 3 loài:
19,822,937
38714
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822937
Chương trình Luna
Chương trình Luna (từ tiếng Nga Луна "Luna" có nghĩa là "Mặt trăng"), đôi khi được truyền thông phương Tây gọi là Lunik, là một loạt các sứ mệnh tàu vũ trụ robot được Liên Xô gửi lên Mặt trăng từ năm 1959 đến năm 1976. Mười lăm chương trình đã được thực hiện thành công, mỗi chiếc được thiết kế như tàu quỹ đạo hoặc tàu đổ bộ, đồng thời đạt được nhiều thành tựu đầu tiên trong lĩnh vực thám hiểm không gian. Họ cũng thực hiện nhiều thí nghiệm, nghiên cứu thành phần hóa học, trọng lực, nhiệt độ và bức xạ của Mặt trăng. 24 tàu vũ trụ được chính thức đặt tên là Luna, mặc dù nhiều tàu vũ trụ khác đã được phóng lên. Những chuyến không đạt được quỹ đạo không được thừa nhận công khai vào thời điểm đó và không được gán số Luna. Những chuyến bay thất bại trong quỹ đạo Trái đất thấp thường được đặt tên là Kosmos (). Chi phí ước tính của chương trình Luna năm 1964 là 6–10 tỷ USD. Vào tháng 8 năm 2023, sau 47 năm, Roscosmos thực hiện lại sứ mệnh đổ bộ lên mặt trăng với tàu Luna 25. Luna 25 cất cánh vào ngày 10 tháng 8 năm 2023, 23:10 UTC, trên đỉnh tên lửa Soyuz-2.1b từ Sân bay vũ trụ Vostochny ở Vùng Amur viễn đông của Nga. Vào ngày 19 tháng 8 năm 2023 lúc 11:57 UTC, tàu đổ bộ đã bị rơi trên bề mặt Mặt Trăng sau khi điều động quỹ đạo thất bại.
19,822,942
699065
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822942
Michał Goleniewski
Michał Franciszek Goleniewski (16 tháng 8 năm 1922, Nesvizh - 12 tháng 7 năm 1993, New York) là sĩ quan tình báo Cộng hòa Nhân dân Ba Lan ( - PRL) đào tẩu sang Hoa Kỳ, cấp bậc trung tá Quân đội Ba Lan, làm việc trong cơ quan tình báo Bộ Công an và An ninh Bộ Nội vụ Đảng Công nhân Ba Lan ( - PPR) năm 1945-1961. Năm 1958, ông hợp tác với CIA và cung cấp thông tin về các điệp viên Liên Xô và Đông Âu đang hoạt động tại phương Tây. Tháng 1 năm 1961, ông trốn sang Hoa Kỳ, được tị nạn chính trị và nhập tịch. Tại Ba Lan, ông bị kết án tử hình vì tiết lộ bí mật quốc gia. Trong số những người Ba Lan đào tẩu, đây được coi là trường hợp gây ra thiệt hại nghiêm trọng nhất cho tình báo an ninh PRL. Ông tiếp tục cộng tác với CIA cho đến năm 1964. Sau đó, Goleniewski được biết đến vì mạo danh người kế thừa ngai vàng hoàng gia Nga Aleksey Nikolaevich nhà Romanov, nhân vật được coi là thoát khỏi bị cộng sản hành quyết. Ông đồng thời công khai đưa ra yêu sách được quyền kế vị nhà Romanov. Năm 1964, Goleniewski tổ chức hôn lễ theo nghi thức Chính thống giáo với một phụ nữ Đức là Irmgard Kampf. Kampf cũng là người trốn khỏi Đông Đức, khi cưới thì đã mang thai con của Goleniewski, rồi hạ sinh con gái Tatyana sau đó. Đại diện người Nga nhập cư tại Hoa Kỳ bày tỏ phẫn nộ vì biết Goleniewski đã có vợ con tại Ba Lan. Xấu mặt về vụ tai tiếng Romanov của Goleniewski, CIA đã sa thải ông. Sau khi thôi việc, Goleniewski nhiều lần đệ đơn kiện CIA và chính phủ Hoa Kỳ, cáo buộc họ không cho phép ông đưa ra bất kỳ tuyên bố chính thức nào về nguồn gốc mình. Ông luôn khăng khăng mình là Aleksey Nikolayevich cho đến tận khi qua đời năm 1993. Một số quan chức tình báo phương Tây cho rằng việc này là do Goleniewski mắc một chứng rối loạn tâm thần nào đó. Giới tình báo Ba Lan lại coi hành động Goleniewski nằm trong một loạt động thái sắp sẵn nhưng bị vượt tầm kiểm soát. Nguồn gốc và thuở thiếu thời. Michał Franciszek Goleniewski sinh ngày 16 tháng 8 năm 1922 tại thành phố Nesvizh, thủ phủ huyện Nesvizh, tỉnh Nowogródek Đệ Nhị Cộng hòa Ba Lan (nay là phủ huyện Niasviž, tỉnh Minsk, Belarus). Cha là Michał (29 tháng 9 năm 1883 - 17 tháng 5 năm 1952) xuất thân từ miền biên viễn Vương quốc Ba Lan, làm nghề kế toán, sau chiến tranh thì điều hành một nhà máy chưng cất rượu; mộ phần nằm ở Wolsztyn (trên bia mộ ghi sai năm sinh là 1893). Mẹ là Janina nhũ danh Turynskaya. Ông nội tên là Antoni còn bà nội là Marcela (nhũ danh Buczynska hoặc Byezinska). Lúc nhỏ, gia đình chuyển đến thị trấn Ciosaniec gần Wolsztyn. Tại đó, Michał học phổ thông (một số nguồn ghi chỉ hết lớp 4 bổ túc) và tốt nghiệp trung học. Khi bị CIA thẩm vấn, Goleniewski cố tình đưa thông tin sai lệch rằng đã học ba năm tại Khoa Luật Đại học Poznań, rồi chuyển đến Warszawa và tốt nghiệp thạc sĩ Đại học Warszawa năm 1956. Văn thư lưu trữ các trường đại học này đều không có thông tin quá trình Goleniewski theo học, có thể ông nói dối vì muốn được nhập tịch nhanh chóng. Thời Đức chiếm đóng Ba Lan, Goleniewski làm người đưa tin và kế toán cho văn phòng "Reichsland" của Đức quản lý đất đai tịch thu từ người Ba Lan. Ông thông thạo tiếng Đức, thậm chí có thể nói một số phương ngữ Đức nên được Reichsland tuyển dụng. Những hoạt động thời chiến của Goleniewski không được nghiên cứu chi tiết đầy đủ. Michał khai rằng từng bị Đức bắt giữ và buộc tội tham gia tổ chức ngầm chống phát xít. Cuối năm 1944, ông bị ốm nặng và đang nằm viện khi Hồng quân tiến vào Wolsztyn. Cuối thập niên 1940 có một vụ điều tra hình sự nhằm làm sáng tỏ nghi ngờ Michał cộng tác với Đức quốc xã thời làm cho Reichsland nhưng các cáo buộc đã không được xác nhận. Sĩ quan tình báo Bộ Nội vụ PPR Đại tá Henryk Bosak nói Michał tham gia Hồng quân và được đi học trường của NKVD tại Kuibyshev năm 1944, rồi đặc phái cử về Tổng cục Thông tin Quân đội Ba Lan. Trưởng tình báo Ba Lan 2002-2004 Zbigniew Siemiątkowski cũng nhắc đến chuyện Goleniewski có mối liên hệ với NKVD. Tuy nhiên không tìm thấy tư liệu nào chứng thực các việc này. Phục vụ trong các cơ quan an ninh. Năm 1945, sau khi thành lập chính quyền cộng sản, Michał gia nhập Đảng Công nhân Ba Lan (PPR) (từ năm 1948 đổi thành Đảng Công nhân Thống nhất Ba Lan) và về công tác tại Bộ Công an. Ngày 15 tháng 8 năm 1945, ông tuyên thệ phục vụ và vào làm trong Sở Công an Zielona Góra, đồng thời trở thành đảng viên chính thức. Đại tá Stefan Antosiewicz đã nâng đỡ sự nghiệp Michał theo nhiều cách, khi mới quen Goleniewski thì chỉ là cảnh vệ (), một nhân viên bình thường của sở tại Novy Tomysl. Tháng 7 năm 1947, Goleniewski mãn khóa trưởng tình báo trưởng Sở Công an huyện Legionowo. Ông lần lượt giữ các chức vụ: Chánh văn phòng (26 tháng 3 năm 1946), Tham mưu (15 tháng 4 năm 1946), Tham mưu trưởng (1 tháng 10 năm 1946), Phó phòng (nhiệm chức từ 1 tháng 10 năm 1946 đến 30 tháng 4 năm 1947, chính thức từ 1 tháng 5 năm 1947 đến 31 tháng 5 năm 1948); Quyền trưởng phòng (từ 1 tháng 5 năm 1947 đến 31 tháng 5 năm 1948). Sau đó, ông được chuyển lên Sở Công an tỉnh Poznań, lần lượt giữ chức trưởng phòng đô thị (ngày 1 tháng 6 năm 1948) và trưởng phòng I (phản gián) (15 tháng 12 năm 1948). Thông tin cho biết trong thời gian công tác tại Poznań, Goleniewski đã vạch mặt được một số cựu đặc vụ Gestapo đang giữ những vị trí cốt cán. Tuy học vấn chỉ lớp 4 bình dân, Goleniewski vẫn được giao những trọng trách quan trọng. Từ ngày 1 tháng 6 năm 1950 đến ngày 31 tháng 5 năm 1953, Goleniewski là trưởng phòng I (phản gián) Sở Công an tỉnh Gdańsk. Ông tham phá các mạng lưới gián điệp chống cộng của Wincenty Orliński, Kazimierz Praiss và Joachim Schaak. Sau đó, ông về phục vụ Tổng cục 1 Bộ Công an (phản gián) tại Warszawa, giữ chức trưởng Cục 9 (phân tích và thông tin) ngày 1 tháng 6 năm 1953, chắc chắn cũng do Antosiewicz hậu thuẫn. Với vị trí này, Goleniewski chịu trách nhiệm đánh giá các tin bình báo nhận được. Goleniewski cũng lãnh đạo đội phản gián "Pająki" ("Nhện") tiêu diệt nhóm OUN(M) ( - ОУН(м) - Tổ chức chủ nghĩa dân tộc (Melnyk)) được CIA trực tiếp tài trợ sau chiến tranh. Chiến dịch này nằm trong chuỗi thành công của lực lượng phản gián Ba Lan chơi trò vô tuyến với CIA và MI6 khi giả dạng tổ chức chống cộng "Tự do và độc lập" ( - WiN) gửi các thông tin sai lệch để thuyết phục phương Tây tài trợ thêm. Ngày 27 tháng 12 năm 1951, trên sóng phát thanh, Ba Lan đã vén màn công khai bí mật trò chơi vô tuyến này. Ngày 15 tháng 3 năm 1955, Goleniewski được bổ nhiệm làm phó Cục 2 Ủy ban An ninh ( - KBP) (phản gián), tiền thân là Cục 1 MOB. Ngày 14 tháng 12, ông được điều động làm phó Tổng cục Thông tin Bộ Quốc phòng. Sau những cải cách chính trị năm 1956, Bộ Công an nằm dưới quyền hạn của Bộ Nội vụ ( - MSW), Goleniewski được biên chế vào Tổng cục 1 Bộ Nội vụ. Trước khi thuyên chuyển, Đảng ủy Bộ Nội vụ đã xem xét vụ cáo buộc Goleniewski "lạm quyền" với cấp dưới. Một số ủy viên đã coi hành động Goleniewski là tiêu cực và khuyến nghị ông không được tiếp tục trong cơ quan an ninh. Tuy nhiên, kết luận cuối cùng coi cáo buộc là vô căn cứ và vẫn quyết định chuyển ông sang ngạch tình báo. Ngày 1 tháng 2 năm 1957, ông được bổ nhiệm làm trưởng Cục 6 (khoa học và kỹ thuật) Tổng cục 1 Bộ Nội vụ với quân hàm Podpolkovnik, quản lý 65 nhân viên dưới quyền. Cấp hàm thăng tiến của Goleniewski theo thời gian là trung sĩ (1945), đại uý (1950), thiếu tá (1951) và trung tá (1955). Khi trao đổi với CIA, Goleniewski đảm bảo rằng đã giải ngũ cùng năm 1955. Ở cương vị lãnh đạo, Goleniewski đích thân tham gia nhiều phi vụ tình báo khác nhau. Thậm chí ông ra nước ngoài dưới vỏ bọc là nhà báo Roman Tarnowski thuộc Cơ quan báo chí Ba Lan. Giấy tờ Roman ghi sinh ngày 10 tháng 10 năm 1920 tại Lviv; trong báo cáo, ông ký tên "Roman" hoặc "Stefan". Việc được bổ nhiệm làm trưởng bộ phận khoa học và kỹ thuật có thể liên quan đến kinh nghiệm của Goleniewski ở Gdańsk, nơi chuyển hàng và thông tin (cả thông tin mật) thời Chiến tranh lạnh. Cục 6 được trang bị thành tựu mới nhất trong lĩnh vực công nghệ quân sự và Goleniewski có khả năng quản lý và sử dụng các công nghệ hiện đại này. Tuy nhiên, sĩ quan tình báo Szczepan Misiura cho rằng Goleniewski làm công việc Cục 6 bị đình trệ không tiến triển cũng như thực hiện cẩu thả. Đặc điểm tính cách. Về một phương diện, Goleniewski được xem là một nhân viên tình báo mẫn cán của Ba Lan, biết cách hoàn thành nhiệm vụ tốt. Ông có kỹ năng tổ chức xuất sắc, mang trong mình tư tưởng cộng sản nên được cơ quan mật vụ Ba Lan và Liên Xô hết sức tin tưởng. Đồng thời ông cũng có trí nhớ phi thường, nhớ chi tiết từng cuộc họp và hầu hết mọi chỉ thị cấp trên. Thông tin cho thấy Goleniewski không uống rượu. Hồ sơ những năm đầu tiên Goleniewski công tác tại Bộ Công an ghi lại như sau: Trong lá thư tháng 6 năm 1947, bí thư thứ nhất quận ủy Ignacy Wróbel đánh giá cao Goleniewski trong vị trí lãnh đạo, thể hiện "sự vô tư, tận tâm và siêng năng xuất sắc", được trong đảng cũng như bên ngoài tôn trọng. Sĩ quan phản gián Tadeusz Szadkowski cho biết Goleniewski là "cánh tay phải" của phó Tổng cục 1 Bộ Công an Julian Konar và mong muốn được kế nhiệm sau này. Tổng cục trưởng Witold Sienkiewicz thấy Goleniewski thường làm việc vào buổi tối và quan tâm đến hoạt động của Cục 2 và tình báo quân sự quốc nội ( - WSW). Tuy nhiên, đồng nghiệp lại ghi nhận một số khuyết điểm nghiêm trọng trong tính cách Goleniewski, gọi ông là "loại đặc biệt ích kỷ" và "kiêu ngạo quá đáng". Goleniewski ảo tưởng mình kiệt xuất và tự phụ cho rằng mình có thể hoàn thành một số nhiệm vụ tốt hơn cấp dưới. Shadkowski và Sienkiewicz đánh giá Goleniewski không có bạn bè thực sự, không thân thiết với đồng nghiệp, tinh thần có vẻ không cân bằng và hay phàn nàn bị giám sát liên tục. Sienkiewicz bổ sung thêm rằng Goleniewski hay khoe khoang có mối quan hệ với các lãnh đạo cấp cao. Cựu nhân viên Tổng cục 1 Mieczysław Rysiński thấy Goleniewski tự coi mình gần như "sĩ quan cận vệ hoàng gia", làm mọi người khó chịu vì luôn kiêu ngạo, xấc xược và trịch thượng với nhân viên dưới quyền. Goleniewski cũng đặc trưng có tính bạo lực, thể hiện rõ khi công tác tại Sở Công an và thẩm vấn những người chống cộng bị bắt. Thành viên phong trào "Tự do và Độc lập" Rościsław Kotwicki khai rằng Goleniewski dùng dùi cui bọc da liên tục đánh người trong cuộc thẩm vấn. Về sau, Goleniewski còn thích cướp công người khác, để làm đẹp thành tích, cho thấy "một người không phải lúc nào cũng được biết đến và đánh giá đúng mức". Gia đình. Vợ đầu của Goleniewski là người Nga có tên Anna Malinovskaya nhũ danh Dyachenko sinh năm 1926. Trong chiến tranh Xô–Đức, bà bị bắt lao động cưỡng bức tại Đức. Bà từng cưới một người Ba Lan ở Nowy Tomysl và sinh con gái Halina năm 1944. Sau khi chồng qua đời, Anna tái hôn với Michał. Họ có một con gái Danuta năm 1946 và một con trai Jerzy Goleniewski năm 1950. Về sau Jerzy chơi bass cho ban nhạc Breakout và mất năm 1989. Từ thập niên 1950, Anna bị bệnh tâm thần nghiêm trọng, cấp trên của Goleniewski là Stefan Antosiewicz nhận định có thể do sang chấn khủng khiếp thời chiến. Goleniewski không chịu nổi cuộc sống gia đình. Ông thường báo cáo bệnh tình nghiêm trọng của vợ lên cho cấp trên. Mọi nỗ lực chữa trị đều không có kết quả dẫn đến Anna bị chẩn đoán mắc chứng hoang tưởng phân liệt. Theo lời bác sĩ khuyên, Goleniewski chuyển đến nhà mẹ đẻ, dù nói rằng do bị vợ đuổi ra khỏi nhà. Trở lại tháng 1 năm 1957, Anna quyết định đưa con gái Halina về Liên Xô để lấy lại quốc tịch cũ. Goleniewski nói họ chưa bao giờ chính thức ly hôn. Trong chuyến công tác tháng 7 năm 1957, Goleniewski gặp Irmgard Margareta Kampf người Đức tại Đông Berlin. Margareta sinh ngày 6 tháng 1 năm 1929 tại Berlin, từng làm thư ký tại trường trung học số 13 Berlin () và chăm sóc cha mẹ đã nghỉ hưu. (Báo Gazeta Wyborcza gọi bà là "Inga Kampf"). Goleniewski tự giới thiệu bản thân là nhà báo Ba Lan Roman Jan chuyên cộng tác làm các ấn phẩm của CHDC Đức. Đồng thời, ông nói với Margareta rằng mình từng bị kết tội tham gia kháng chiến và cả gia đình (trừ mẹ) bị Đức quốc xã giết hại. Trong thời gian dài, Goleniewski không báo cáo cấp trên về quan hệ với Irmgard. Nửa đầu năm 1959, Tổng cục phó Đại tá Henryk Sokolak nhận thấy Goleniewski năng đến CHDC Đức hơn bình thường. Tháng 3 năm 1960, Sokolak tiến hành kiểm tra thực địa nhưng không phát hiện ra điều gì khả nghi. Trong khi ấy, Goleniewski lừa dối Irmgard khi có quan hệ với một phụ nữ khác khác tại Warszawa. Tháng 9 năm 1960, Bộ Nội vụ phát hiện Goleniewski gặp gỡ Kampf, thẩm vấn bà rồi cấm Goleniewski tạm thời không được xuất ngoại. Goleniewski bị sốc tinh thần, cấp dưới là trung úy Jan Bisztyga nhận thấy điều này đồng thời nói ông "nghiện" ma túy trong thời gian dài. Tháng 10 năm 1960, Goleniewski liên hệ với luật sư để cố gắng ly dị và kết hôn với người tình mới. Tháng 11, Goleniewski nộp bản giải trình dài 9 trang lên Tổng cục 1, trong đó ghi quen biết Imgard từ năm 1958 (sự thật là năm 1957), ông bị lay động và cảm kích trước nhiệt huyết tận tâm của bà đối với hệ thống chính quyền CHDC Đức, coi đó là điểm thu hút nhất đối với cá nhân, đồng thời bày tỏ ý định muốn cưới bà. Tuy nhiên, vì việc ly dị phức tạp về mặt pháp lý và Goleniewski lại đang là người nhà nước, kể cả Irmgard là người Đông Đức cùng phe XHCN, Tổng cục 1 không bỏ lệnh cấm Goleniewski xuất ngoại để tiếp tục gặp gỡ người tình. Goleniewski nỗ lực để dỡ bỏ được lệnh cấm này bằng bất cứ giá nào, dù nếu thất bại thì có nguy cơ bị sa thải. Bộ trưởng Nội vụ Władysław Wicha xem xét xử lý vấn đề này của Tổng cục 1. Ngày 22 tháng 12, Goleniewski xin phép Witold Sienkiewicz đi công tác Berlin từ ngày 26 tháng 12 năm 1960 đến ngày 3 tháng 1 năm 1961 để giải thích và nói lời chia tay với Irmgard. Phó bộ trưởng Nội vụ Mieczysław Moczar phụ trách giám sát tình báo đã gặp và phê chuẩn chuyến đi này cho Goleniewski, ngày quay lại được gia thêm đến 8 tháng 1. Điệp viên hai mang. CIA tuyển mộ. Ngày 1 tháng 4 năm 1958, trong chuyến công tác Thụy Sĩ từ 24 tháng 3 đến 3 tháng 4, Goleniewski đã gửi một gói hàng cho đại sứ Hoa Kỳ tại Bern Henry J. Taylor, trong đó có hai bức thư, một là viết trực tiếp cho Taylor và hai là gửi Giám đốc FBI Edgar Hoover đề nghị được làm đặc vụ CIA, gửi kèm là một loạt tài liệu thông tin về hoạt động của các cơ quan tình báo Khối Đông Âu ở Châu Âu cũng như cách thức liên hệ lại. Thư được ký bằng tên Đức "Heckenschütze" ( - lính bắn tỉa) cho thấy người viết là sĩ quan tình báo cấp cao của một nước trong Khối Warszawa (không rõ nước cụ thể nào). Không rõ chính xác nguyên nhân do đâu mà Goleniewski muốn hợp tác với Mỹ. Sau khi Goleniewski qua đời, người vợ đầu Anna và con gái Halina cho biết ông làm vậy vì lý do ý thức hệ. Tác giả Tim Tate cũng khẳng định không giống với những kẻ đào tẩu khác, bản thân Goleniewski không chấp nhận nổi hệ tư tưởng cộng sản. Có ý kiến lại cho rằng Goleniewski quyết định mang người yêu Irmgard trốn sang phương Tây vì hậm hực cấp trên đã không cho phép mình ly hôn cưới vợ mới. Theo Ted Sheckley, trước đó vài tuần Goleniewski đã tìm cách liên lạc với lãnh sự quán Hoa Kỳ ở Berlin. Sĩ quan CIA Tennent H. Bagley cho biết lúc đầu người Mỹ nghi rằng đây là âm mưu của Liên Xô nên đã điều tra nghiên cứu rất kỹ gói hàng. Cuối cùng họ xác nhận đó không phải thư giả và thực sự gửi đến từ tình báo Ba Lan. Lời đề nghị hợp tác của Goleniewski đã được chấp nhận, dấu hiệu trả lời là mẩu quảng cáo đăng trên tờ "Frankfurter Allgemeine Zeitung". "Heckenschütze" bắt đầu trao đổi thư từ với CIA: Goleniewski gửi thư đến địa chỉ nhất định ở Tây Berlin, về sau thì thông qua "hộp thư chết" tại Warszawa. Các tin từ CIA đều ký "Hoover" khiến Goleniewski tin rằng đang kết nối cá nhân với Hoover và thông tin mình gửi đến được với FBI. Về sau, khi phân tích nội dung thông tin nhận được, CIA đi đến kết luận rằng "Sniper" thực sự làm việc trong cơ quan tình báo Ba Lan. Hoạt động này được đặt mật danh "BE/Vision", CIA xem xét đánh giá về sau. Nhờ tin tức Goleniewski cung cấp, tình báo Hoa Kỳ cuối cùng đã có được thông tin quan trọng không chỉ về các đặc vụ KGB và những nước Khối phía Đông, mà còn về sự tập trung quân Xô Viết tại Châu Âu. CIA gọi Goleniewski là "Sniper" còn trong tài liệu của MI6 viết là "Lavinia". Chỉ điểm. Tháng 4 năm 1959, Goleniewski cung cấp cho CIA ở châu Âu những thông tin đầu tiên về điệp viên Liên Xô, đó là hai sĩ quan tình báo cao cấp hoạt động ở Anh và chuyển thông tin tuyệt mật cho Liên Xô. Đặc vụ CIA Howard Roman liền thông báo cho người liên lạc tại New York là Walter Bell. Thông tin cho biết "Lambda 1" đã chuyển ít nhất ba tài liệu mật từ kho lưu trữ MI6, còn "Lambda 2" từng làm việc trong Đại sứ quán Anh ở Ba Lan và được tuyển mộ năm 1952. Lambda 1 nhanh chóng được xác định là sĩ quan cấp cao MI6, phó giám đốc điều hành kỹ thuật George Blake. Tài liệu mật đầu tiên được Blake giao cho Moskva rồi chuyển tiếp tới mật vụ Ba Lan, trong đó có thông tin 26 công dân Ba Lan tiềm năng để MI6 có thể tuyển mộ khai thác; thứ hai là báo cáo kinh tế Ba Lan năm 1959; thứ ba là báo cáo ngắn về tình báo khoa học kỹ thuật của các cơ quan tình báo Anh. Cũng nhờ Blake, Liên Xô nhận được thông tin về Chiến dịch Vàng nhằm đặt một đường hầm ngầm tới Đông Berlin và nỗ lực cắt đứt tuyến liên lạc của quân Liên Xô tại CHDC Đức. Ngày 3 tháng 4 năm 1961, Blake đang công tác ở Liban thì bị gọi về Luân Đôn và bị bắt ngày 12 tháng 4 vì tội làm gián điệp cho Liên Xô. Quá trình điều tra tiếp tục nhận diện Lambda 2 là Harry Houghton ("Huiton" trong tin của Goleniewski), nhân viên Cục Vũ khí dưới nước Bộ Hải quân trên đảo Portland, được Ba Lan tuyển mộ năm 1951 rồi tiếp tục cung cấp thông tin cho Liên Xô. Điều tra cũng xác định Houghton kết hợp với với người tình là Ethel Gee: hai người đã lấy cắp thông tin tuyệt mật của Hải quân Anh để chuyển cho Liên Xô. Nhờ Goleniewski mách nước, ngày 7 tháng 1 năm 1961, Scotland Yard phá và bắt giữ các điệp viên trong Mạng lưới điệp báo Portland. Goleniewski báo thông tin quan trọng về những người nhập cư Ba Lan làm trong chính phủ Hoa Kỳ được tình báo Ba Lan tuyển mộ. Một trong số đó là nhân viên Bộ ngoại giao Edward Symans, di cư khỏi Ba Lan năm 1939 và từng làm việc tại nhiều đại sứ quán và lãnh sự quán khác nhau (bao gồm cả ở Berlin, Moskva, Vladivostok và Poznań). Khi ấy, ông cùng thư ký Dorota Cwynar đang công tác tại đại sứ quán Mỹ ở Warszawa. Cả hai bị bắt với tội danh gián điệp, nhưng kết quả thẩm vấn bằng máy phát hiện nói dối của FBI và điều tra của Tiểu ban An ninh Nội địa Thượng viện Hoa Kỳ đã dẫn việc bãi bỏ tất cả cáo buộc dành cho Symans và Cwynar. Cwynar về sau đã chạy vào đại sứ quán Ba Lan xin tị nạn chính trị. Một trường hợp khác cũng thường quy do Goleniewski khi nhân viên khác của Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Ba Lan là Irvin Skarbek bị lật tẩy làm gián điệp. Trên thực tế, Skarbek bị lộ vì thư tố giác ẩn danh gửi đến đại sứ quán Mỹ. Tháng 3 năm 1959, Goleniewski báo cho CIA rằng có hai điệp viên Liên Xô trong hàng ngũ cơ quan tình báo Tây Đức BND (). Tin này bắt nguồn từ cuộc họp những người đứng đầu cơ quan phản gián các nước thuộc Hiệp ước Warszawa, người đứng đầu phái đoàn Liên Xô trưởng Tổng cục 2 KGB Oleg Mikhailovich Gribanov báo cáo rằng có 6 sĩ quan BND đã đến thăm trụ sở CIA năm 1956, hai trong số đó là điệp viên Liên Xô. Một số nguồn tư liệu cho rằng từ phó cố vấn cấp cao của KGB tại Bộ Nội vụ Ba Lan Andrei Ivanovich Raina, Goleniewski đã lần ra được danh tính điệp viên Liên Xô trong BND là Heinz Felfe (hay còn gọi là "Hakke"). Nhưng không xác định được danh tính điệp viên còn lại. Một số tác giả cho rằng Goleniewski có mặt tại cuộc họp lãnh đạo phản gián. Tuy nhiên, thực tế là từ năm 1957, Goleniewski không hoạt động phản gián chính thức nên thông tin này còn gây tranh cãi. Goleniewski cũng chỉ điểm các điệp viên Liên Xô khác như: sĩ quan MI6 Kim Philby, nhân viên tổ chức Gehlen và BND Hans Clemens ("Paul") và Peter Fuhrmann ("Peter"), luật sư Erwin Tiebel là bạn của Clemens và mạng lưới đặc vụ KGB ở Karlhorst; quan chức cấp cao Bộ Quốc phòng Israel và Cục phó Cục Tác chiến Bộ Tổng tham mưu IDF Israel Beer ("Đồng chí Kurt"), đại tá không quân Thụy Điển Stig Wennerström ("Đại bàng") và một số nhân vật khác. Trong thư ngày 25 tháng 1 năm 1960, Goleniewski cũng đã nhầm Jerzy Bryn là điệp viên Ba Lan. Bryn vống từng phục vụ tình báo quân đội rồi chuyển sang dân sự năm 1957. Năm 1959, Bryn là bí thư thứ nhất đại sứ quán Ba Lan ở Tokyo, cuối cùng chạy sang Hoa Kỳ. Về sau, Bryn cố thuyết phục chính quyền Ba Lan rằng CIA đã bắt cóc và tìm cách thuyết phục mình hợp tác. Từ tháng 1 đến tháng 4 năm 1961, do Goleniewski phản bội, tổng cộng 12 người bị bắt, 10 ở Mỹ và 2 ở Tây Đức. Phương Tây cũng xác định được 240 đặc vụ tình báo Liên Xô hoặc những cơ quan tình báo thân Liên Xô. Hoa Kỳ mở khoảng 2000 vụ điều tra những người bị tình nghi làm gián điệp cho các cơ quan tình báo Khối phía Đông. Không có bằng chứng nào cho thấy ngoài Goleniewski còn có nguồn nào khả dĩ hơn đã vạch trần số điệp viên nói trên (như trường hợp Beer và Wennerström). Một số tác giả cho rằng Goleniewski cũng giúp vạch mặt trợ lý tùy viên Hải quân Anh tại Moskva là John Vassall. Nhưng thực ra Vassall bị nhân viên KGB Anatoly Mikhailovich Golitsyn ("Martel") chỉ điểm sau khi đào tẩu đến Helsinki tháng 12 năm 1961. Golitsyn cũng xác nhận hầu hết các thông tin mà Goleniewski đã cung cấp cho tình báo phương Tây. Đánh giá thiệt hại. Từ tháng 4 năm 1958 đến tháng 12 năm 1960, Goleniewski gửi tổng cộng 14 bưu kiện chứa thư và thông tin mật cho CIA. Chỉ sau bưu kiện thứ hai hoặc thứ ba, người Mỹ mới gạt bỏ nghi ngờ rằng đây là một âm mưu và tin chắc vào độ xác thực của thông tin nhận được. Tất cả các thư đều viết bằng tiếng Đức: mỗi thư đều có phần chi tiết cụ thể về mật danh và dữ liệu hoạt động tình báo Liên Xô. CIA ghi nhận thu được 5.000 tài liệu của tình báo Ba Lan và khoảng 800 tài liệu tình báo Liên Xô được giấu trong 160 vi phim. Chính Goleniewski cho biết đã gửi tổng cộng 2.000 vi phim thông tin mật, dù giấu danh tính và thông tin cá nhân thật những vẫn nhận được phần thưởng hậu hĩnh; 160 tài liệu đánh máy thông tin chung và 5.000 trang thông tin tuyệt mật (hệ thống vệ tinh trinh sát của Liên Xô; thông tin điệp viên PPR và CHDC Đức ở Tây Âu và Hoa Kỳ; thông tin quân sự, kinh tế, chính trị và khoa học, không lưu). Hoa Kỳ cũng được báo về việc nghe lén Đại sứ quán Mỹ ở Warszawa và nhà các nhân viên ngoại giao Mỹ tại Ba Lan. Goleniewski làm tê liệt hoàn toàn công việc của Cục 4 (đảm nhiệm tình báo ở Pháp, Ý, Thụy Sĩ, Bỉ, Hà Lan và Vatican) Tổng cục 1 Bộ Nội vụ PPR, vì Ba Lan không xác định nổi kẻ phản bội sau những thông tin bị Goleniewski bán cho CIA. Theo CIA, tất cả điệp viên Ba Lan đều được lệnh dừng mọi nhiệm vụ ngay lập tứ. Về sau mới biết Goleniewski đã bán đứng 31 sĩ quan tình báo PPR, một số sau đó cũng được CIA tuyển mộ, đồng thời ông cũng gửi thông tin 26 quan chức Ba Lan tiềm năng để Anh khai thác tuyển mộ. Ước tính số lượng về nguồn tin Goleniewski lấy được khác nhau: Tổng cục I Bộ Nội vụ (tình báo nước ngoài) cho rằng ông nắm được 90% sĩ quan tình báo làm việc ở Ba Lan và nước ngoài, đa số ông biết hết những người này chỉ trừ một số đặc vụ trẻ. Cục 2 Bộ Nội vụ (phản gián) cho rằng Goleniewsk biết khoảng 70 người, một nửa trong số đó công tác tại nước ngoài. Theo ước tính sau này, Goleniewski có thể biết ít nhất 92 đặc vụ và 131 nhân viên các đơn vị khác, cũng như khoảng 40 hoạt động mà họ tham gia. Hiện chưa xác định được số lượng chính xác nhưng Goleniewski được cho là có thể biết hết tất cả vụ mình tham gia và những đặc vụ đã liên hệ. Theo đại tá Witold Sienkiewicz, việc Goleniewski phản bội gây ra thiệt hại nghiêm trọng hơn nhiều cho tình báo Ba Lan so với trường hợp cựu cục phó Cục 10 Bộ Công an trung tá Jozef Sviatlo đào tẩu sang Tây Berlin sau cái chết của Stalin năm 1953. Khoảng 80% thông tin dựa trên các báo cáo của Goleniewski về Liên Xô và Ba Lan đã được tiến hành phân loại. Theo Goleniewski, Cục 6 nhận được nhiều tài liệu kỹ thuật cơ khí, luyện kim, điện tử, hóa học, vũ khí và năng lượng hạt nhân trong những năm 1957-1960. Ông cũng cung cấp cả danh sách thanh tra Cục 6 tham gia nghiên cứu tài liệu nhận được. Thông tin bao gồm cả hợp tác tình báo giữa Bộ Nội vụ với nhiều bộ và cơ quan Ba Lan khác. Trước khi đào tẩu, Goleniewski giấu các bản sao tài liệu dưới một cái cây tại Warszawa và báo lại cho CIA. Tòa án quân sự Quân khu Warszawa cũng đưa ra cáo trạng Goleniewski biển thủ số tiền lớn trong quá trình công tác. Năm 1958-1960, ông lấy 550 đô la Mỹ và 200 bảng Anh bằng cách dùng biên lai giả để chuyển cho đặc vụ Tadeusz Saks. Từ ngày 27 tháng 12 năm 1960 đến ngày 4 tháng 1 năm 1961, ông chiếm đoạt khoản thưởng mark Tây Đức, 300 đô la Mỹ và 600 mark Đông Đức ( mark Tây Đức bằng tiền mặt của Bộ Nội vụ PPR trước khi rời Berlin). Ông đã chuyển tất cả số tiền này vào tài khoản của Irmgard, Stasi lại không nhận ra điều đáng ngờ này khi thực tế Irmgard chỉ kiếm được 300 mark một tháng, không thể có số tiền lớn như vậy cũng như đủ khả năng chi trả các đồ xa xỉ trang sức đắt tiền khác mà Goleniewski đã tặng. Đào tẩu. Irmgard nói hai người sẽ không được hạnh phúc dưới chế độ cộng sản và quyết định trốn sang phương Tây ngay khi có cơ hội. Tháng 12 năm 1960, Goleniewski gọi điện cho đại sứ quán Mỹ ở Tây Berlin, xác nhận mình là "Sniper", tiết lộ tên thật và đề nghị gặp mặt. Tối 25 tháng 12, ông đi xe lửa đến Berlin với hộ chiếu Ba Lan mang tên Roman Kowalski. Trước khi rời đi, ông lấy 11 nghìn mark Tây Đức từ quầy thu ngân Tổng cục 1 và chuyển một phần cho cấp dưới là Jan Bishtyga với chỉ thị mang đến Berlin (giao cho một sĩ quan tình báo khác là Jerzy Kędzierski). Ngay sau đó, Goleniewski dưới cái tên Kowalski và Kampf xuất hiện tại đại sứ quán Mỹ yêu cầu được sang phương Tây tị nạn chính trị. Goleniewski ngạc nhiên lẫn bực bội trước sự tiếp đón lạnh nhạt. Tuy hiểu rõ sự khác biệt giữa CIA và FBI, ông vẫn hy vọng rằng với chữ ký Hoover thì mình đang được trao đổi trực tiếp với ban lãnh đạo FBI vì CIA có thể đã bị tình báo Liên Xô cài người vào. Thực sự về sau mới biết có nhiều lý do nghiêm trọng khiến Goleniewski muốn tị nạn. Ngay trước khi bại lộ, George Blake đã cảnh báo KGB rằng CIA đã cài được gián điệp vào Cục tình báo nước ngoài Ba Lan, không ai khác mà chính là Goleniewski. Tháng 7 năm 1960, KGB đã chuyển nội dung tương tự như vậy cho Ba Lan. Ngày 27 tháng 12, Goleniewski gặp Bishtyga và Kędzierski tại Berlin, nhận lại một khoản tiền, rồi thỏa thuận lần gặp kế tiếp và thực thi hoạt động theo kế hoạch. Gần một tháng trước đó, vào ngày 1 tháng 12, tại Đông Berlin, Goleniewski gặp đại tá tình báo Ba Lan Władysław Michalski thường trú hoạt động tại đó, yêu cầu số tiền khoảng 13.000 mark Tây Đức và 1.100 bảng Anh vào ngày 4 hoặc 5 tháng 1. Vì số tiền gấp khoảng ba lần chi phí thông thường nên cần tổng bộ chấp thuận. Hồi 21:00 tối 3 tháng 1 năm 1961, Goleniewski đến trụ sở nhận 5.000 mark; khoảng 22:20, đến nhà Kampf cách biên giới Đông-Tây 150 mét. Lúc 23:00, hai người ra khỏi nhà chỉ mang theo túi xách. Hồi 17:30 ngày 4 tháng 1, Goleniewski dùng điện thoại công cộng gọi Lãnh sự quán Hoa Kỳ và nói mật khẩu để bắt kết nối đến CIA. Nửa giờ sau, họ bắt taxi đến lãnh sự quán gặp CIA do David Murphy chỉ huy. Hai bên gặp nhau lúc 18:00 hoặc 18:06. Goleniewski dùng tên thật và giải thích hoàn cảnh dẫn đến việc gặp mặt. Cặp đôi sau đó đi Frankfurt am Main và ngày 5 tháng 1 đến căn cứ Không quân Hoa Kỳ tại Wiesbaden, có điệp viên CIA Homer E. Roman hay Howard Roman đang đợi sẵn. Đêm 11 rạng sáng 12 tháng 1, Roman cùng hai người bay trên phi cơ quân sự, hạ cánh xuống căn cứ không quân Andrews, Hoa Kỳ. Ngày 16 tháng 1, CIA đưa họ đến Ashford Farm (Maryland) và bắt đầu loạt thẩm vấn Goleniewski kéo dài vài tháng, tình báo Anh cũng tham gia. Goleniewski không nói gì về yếu tố hôn nhân gia đình trong các lý do đào tẩu. Vài ngày sau khi đến Mỹ, Irmgard và Goleniewski làm đám cưới dân sự. Ngày 16 tháng 9 năm 1961, Goleniewski ký thỏa thuận với CIA, theo đó ông được Hoa Kỳ chu cấp tài chính, đảm bảo an toàn và hỗ trợ y tế trong một năm. Ngày 5 tháng 3 năm 1962, hai vợ chồng được CIA hỗ trợ đưa đến New York. Ngày 16 tháng 6 năm 1962, thỏa thuận giữa Goleniewski và CIA được gia hạn thêm một năm. Ngày 7 tháng 1 năm 1963, Goleniewski chính thức được tị nạn chính trị tại Hoa Kỳ. Ngày 10 tháng 7 năm 1963, Thượng viện Hoa Kỳ ra quyết định số HR5507 cho phép Goleniewski nhập tịch với công lao to lớn hỗ trợ Hoa Kỳ đấu tranh chính trị và quân sự chống lại Liên Xô. Cùng năm đó, lo ngại tình báo Ba Lan trừ khử vì tội phản bội, Goleniewski thuyết phục CIA cấp súng cá nhân. Phản ứng của Ba Lan. Điều tra và xét xử. Ngày 6 tháng 1 năm 1961, tình báo Ba Lan phát hiện Goleniewski biến mất. Các sĩ quan Stasi theo dõi ông trong thời gian dài liền lục soát căn hộ của Kampf, phát hiện bà đã mang theo toàn bộ những đồ giá trị nhưng túi đồ cá nhân của Goleniewski vẫn để lại. Bên cạnh giả thuyết đào tẩu, họ cũng nghi ngờ Goleniewski bị bắt cóc. Ngày 12 tháng 1, đại tá Sokolak lệnh cho trung tá Czesław Gwóźdź, thiếu tá Wiaczesław Maczuła và trung úy Jan Bishtyga lục soát văn phòng của Goleniewski. Họ tìm thấy trong két sắt danh sách tất cả các vụ việc do Cục 6 phụ trách cùng tên điều tra viên. Thông tin cho thấy vào cuối tháng 11 năm 1960, Goleniewski nói do lệnh cấp trên yêu cầu mình phần tích tất cả các vụ việc, nên yêu cầu Gwóźdź biên soạn. Tài liệu gồm 2 bản, mỗi bản 22 trang đánh máy, liệt kê 191 vụ việc có mật danh, 45 đặc vụ, 20 điệp viên ngầm, 87 công chức và 39 thanh tra. Gwóźdź không chỉ đưa danh tính mà còn liệt kê những vụ việc người đó tham gia. Bằng chứng này cho thấy khả năng lớn Goleniewski đã phản bội khi chụp lại tài liệu này. Điều tra sâu thêm phát hiện Goleniewski đã mượn máy ảnh Minox và sáu cuộn phim từ Bishtyga, rồi yêu cầu Kędzierski đưa thêm một cuộn phim khác. Ngay trước Giáng sinh, ông trả lại máy ảnh cho Bishtyga và yêu cầu thêm bốn cuộn phim nữa, nói là dùng để đào tạo một nhân viên khác. Ngày 13 tháng 1, tất cả đặc vụ Ba Lan ở Berlin nhận được thông báo về việc Goleniewski biến mất. Ngày 14 tháng 1, dù không có bằng chứng thuyết phục, Witold Sienkiewicz vẫn thông báo cho văn phòng công tố nội bộ rằng Goleniewski đào ngũ. Hai ngày sau, văn phòng công tố chính thức buộc tội Goleniewski đào ngũ. Ngày 19 tháng 1, Bộ An ninh CHDC Đức tham gia điều tra, người đứng đầu là Erich Mielke chuyển cho Ba Lan kết quả điều tra sơ bộ về "Roman Kowalski" và Irmgard Kampf, chi tiết về vụ mất tích. Ngày 23 tháng 1, Bộ trưởng Nội vụ Ba Lan ra mệnh lệnh số 214 cách chức Goleniewski. Ngày 24 tháng 1, văn phòng công tố hoàn thành cơ sở vững chắc kết tội Goleniewski phản quốc, khi mà Tổng cục 1 bắt đầu nhận được thông tin hàng loạt điệp viên Khối phía đông bị bại lộ. Họ xem xét cả khả năng liệu Kampf có phải điệp viên CIA hoặc MI6 không, nhưng tình báo CHDC Đức không tìm thấy bất kỳ bằng chứng nào. Ngày 27 tháng 1, Hội đồng an ninh Bộ Nội vụ thảo luận về trường hợp nhân viên đào tẩu. Ngày 7 tháng 4, văn phòng công tố nội bộ Warszawa lập cáo trạng cho Michał Goleniewski. Phiên tòa diễn ra tương đối nhanh chóng, tiến hành thẩm vấn một số nhân chứng, hầu hết là nhân viên Tổng cục 1. Mieczysław Moczar là người đã cho phép Goleniewski xuất ngoại lại không nằm trong số bị thẩm vấn. Ngày 18 tháng 4 năm 1961, tòa án quân sự Warszawa () tuyên án tử hình trung tá Michał Goleniewski, tước bỏ mọi quyền, khen thưởng và mọi phẩm hàm, tài sản bị tịch thu. Ngày 24 tháng 5, Tòa án quân sự tối cao Warszawa bác kháng nghị và Goleniewski chính thức bị sa thải. Tháng 5 năm 1961, KGB biết về sự phản bội của Goleniewski cũng như vai trò của ông khiến Houghton bị bắt sau khi nhận báo cáo của Tổng cục 1 Bộ Nội vụ Ba Lan gửi đến. Ngày 30 tháng 10 năm 1962, với án tử hình, Goleniewski cuối cùng bị gạch tên khỏi danh sách nhân viên An ninh Ba Lan. Khắc phục hậu quả. Bản án tử hình vắng mặt dành cho kẻ phản bội Goleniewski cũng không thể bù đắp cho thiệt hại mà tình báo Ba Lan phải gánh chịu. Ngày 6 tháng 4, Witold Sienkiewicz bị miễn nhiệm trưởng Tổng cục 1 chuyển sang làm nhân sự và đại tá Henryk Sokolak thế chỗ. Nguyên trưởng Cục 3 trung tá Tadeusz Szadkowski sang làm trưởng Cục 6 đã tiến hành đánh giá hiện trạng vụ Goleniewski đào tẩu, mức độ thiệt hại và khôi phục lại hoạt động bình thường. Kết quả cho thấy danh sách thông tin mà Goleniewski chuyển cho phương Tây là vô cùng lớn. Trong đó có cơ cấu và nhân sự Bộ Công an, Ban cán sự, Bộ Nội vụ; cơ cấu tổ chức công tác của Cục 2 Bộ Nội vụ; thông tin về hoạt động của Tổng cục Thông tin cho đến năm 1957; dữ liệu cá nhân của nhân viên Cục 6 Tổng cục 1 Bộ Nội vụ (45 đặc vụ nằm vùng phương Tây); cơ cấu, phương pháp làm việc, dữ liệu nhân sự Tổng cục 1. Về sau bổ sung cả thông tin kinh kế, sản xuất công nghiệp. Kết luận thiệt hại chính trị do trung tá Goleniewski trốn sang phương Tây gây ra là không thể đo đếm được. Chỉ huy của Goleniewski là đại tá Witold Sienkiewicz tuyên bố vụ đào tẩu gây thiệt hại nghiêm trọng cho tình báo Ba Lan, làm tê liệt toàn bộ tình báo khoa học và kỹ thuật, đe dọa toàn bộ điệp viên ở nước ngoài và xói mòn niềm tin lớn. Tháng 1 năm 1962, trong thư gửi Mieczysław Moczar, Sokolak báo cáo rằng vụ đào tẩu của Goleniewski và một sĩ quan tình báo Ba Lan khác đại úy Władysław Mróz đã làm tê liệt hoạt động tình báo nước ngoài, Tổng cục 1 không còn đưa ra được hoạt động tích cực nào cho đến tận tháng 8 năm 1961. Sau khi phân tích đánh giá, bộ phận không chỉ tìm cách khôi phục mạng lưới điệp viên mà còn phải tái cấu trúc hoàn toàn. 73 nhân viên bị thải loại, 30 người bị điều động sang vị trí khác; đến giữa tháng 5 năm 1961 thay đổi đến 12 cục trưởng. Theo Sokolak, vụ phản bội của Goleniewski cùng với cuộc khủng hoảng Berlin đã giáng một đòn mạnh vào tình báo Ba Lan năm 1961. Ba Lan bắt đầu tìm hiểu lý do thực sự tại sao Goleniewski phản bội và đào tẩu, vụ mật danh Teletechnik được giao cho Cục 3 nhưng chỉ giới hạn trong việc giám sát mẹ đối tượng. Trong những năm tiếp theo, dù được CHDC Đức giúp đỡ, tình báo Ba Lan cũng không tìm ra được nguyên nhân thực sự, còn KGB thì từ chối hỗ trợ tìm kiếm kẻ đào tẩu. Các đặc vụ bắt đầu theo dõi người vợ đầu Anna và con trai Jerzy, Jerzy gặp trục trặc khi xin hộ chiếu và được cho là đang tìm cách bắt liên lạc với cha. Ba Lan cũng chuẩn bị một nhóm đặc vụ lên kế hoạch sang phương Tây săn lùng và trừ khử Goleniewski nếu cần, nhưng không đạt kết quả nào. Tiếp tục với CIA. Khi ở Hoa Kỳ, Goleniewski đưa ra một số tuyên bố cực kỳ khó tin khiến nhiều người nghi ngờ liệu ông có phải sĩ quan tình báo không. Tháng 2 năm 1966, Goleniewski nói trong số điệp viên Liên Xô có thủ lĩnh Gestapo được cho là còn sống Heinrich Muller (có lẽ đã chết vào ngày 1 hoặc 2 tháng 5 năm 1945) và Reichsleiter Martin Bormann (tự sát ngày 2 tháng 5 năm 1945, hài cốt được tìm thấy năm 1972), cũng như người đứng đầu Gestapo ở Danzig là Jakob Löllgen. Tiếp theo, ông gộp cả người đứng đầu SS Gottlob Berger vào đó, cho rằng tất cả lãnh đạo Đức Quốc xã trên đều là thành viên một tổ chức bí mật do Hitler thành lập năm 1944, tổ chức này cam chịu thất bại trong Thế chiến thứ hai và quyết định tham gia cùng Liên Xô trong cuộc chiến chống lại phương Tây. Ngoài ra, Goleniewski còn nói KGB tuyển mộ được Ngoại trưởng Hoa Kỳ tương lai Henry Kissinger (năm 1963, ông đề cập rằng Kissinger làm việc cho KGB dưới mật danh "Bor" hoặc "Đại tá Boer" và lặp lại tuyên bố này vào năm 1972), giám đốc MI5 1956-1965 Roger Hollis, giám đốc MI5 về sau (1972-1979) Michael Hanley ("Harriet") và thậm chí cả nhà lãnh đạo tinh thần Iran Ruhollah Khomeini. Về sau, nguồn tin của Pháp và Trung Quốc cho biết tình báo Liên Xô có ý định tuyển mộ Kissinger năm 1945 để ngăn cản Trung Hoa Dân Quốc nối lại quan hệ với Hoa Kỳ, nhưng cuối cùng đã thất bại. Tháng 8 năm 1976, sau khi đã nghỉ việc, Goleniewski tuyên bố rằng Reinhard Heydrich đã giả chết năm 1942 và chuyển đến Hoa Kỳ dưới vỏ bọc nhà báo Guy Richards của Tạp chí New York. Những tuyên bố của Goleniewski về "điệp viên KGB" thậm chí nằm vùng ngay tại Langley được đưa lên phương tiện truyền thông không chỉ một lần, nhưng nhiều người cho là "hoàn toàn vô nghĩa". Nhân viên MI5 Peter Wright viết rằng Goleniewski khi ấy là "điên rồ", còn Kissinger trong một phỏng vấn năm 1989 gọi Goleniewski là "thằng điên". Một số nhà nghiên cứu còn cho rằng Goleniewski bắt đầu mắc chứng tâm thần phân liệt. Trùm phản gián CIA James Angleton và giám đốc CIA về sau Richard Helms coi Goleniewski tung tin sai lệch là do KGB dự liệu. Theo đó, KGB tuyển mộ và hy sinh những con tốt gián điệp để bảo vệ những thứ khác thực sự có giá trị hơn. Tác giả Chapman Pincher trích dẫn ý kiến từ MI5 cho rằng KGB gây áp lực năm 1963 khiến Goleniewski tung tin thất thiệt dù trước đó từng cung cấp tin tức chân thực chính xác. Đại tá Witold Sienkiewicz của Ba Lan nói thông tin Goleniewski cung cấp khiến các điệp viên không quan trọng lắm bị lộ thì chính xác hơn rất nhiều so với các tin còn lại, Đại tá biên phòng Henryk Piecuch cũng có những phát ngôn tương tự, cho biết Władysław Gomułka nhất quyết yêu cầu trừ khử Goleniewski, nhưng cáo buộc KGB can thiệp để không thi mà không có căn cứ. Về sau, Goleniewski lập luận rằng tất cả các tổ chức chống cộng theo chủ nghĩa dân tộc Ba Lan ra đời trong khoảng năm 1948-1952 và được CIA tài trợ khoảng 1,18 triệu đô la, trên thực tế lại là tấm bình phong do Liên Xô và Ba Lan tạo ra để cài điệp viên thâm nhập phương Tây, hoặc thành viên chống cộng khi bị bắt cũng bị ép buộc phải cộng tác với tình báo Ba Lan. Vấn đề này thực ra cũng có phần cơ sở hợp lý, như năm 1948-1952, Ba Lan thực sự đã tiến hành Chiến dịch Cerazy () dùng cái bẫy phát thanh giả dạng tổ chức "Tự do và Độc lập" nhằm đưa thông tin sai lệch cho CIA và SIS. Goleniewski đề cập đến sự tồn tại của bộ phận "D" thuộc tình báo nước ngoài KGB liên quan đến việc cung cấp thông tin sai lệch cho tình báo đối thủ. Ông cũng cho rằng CIA đã bí mật chuyển 1,2 triệu đô la một số đặc vụ KGB nằm vùng đảng viên Đảng Cộng sản Hoa Kỳ và Ý. Goleniewski làm việc cho CIA đến năm 1964, một số nguồn đôi khi nhắc không chính xác đến ngày làm việc cuối là 14 tháng 12 năm 1963. Ông giải mật nội dung vi phim cho Hoa Kỳ, chỉ điểm tên điệp viên Liên Xô hoạt động tại châu Âu và mô tả kỹ thuật, cách thức tuyển mộ của KGB và các cơ quan tình báo khối phía Đông. Chính thức thì thỏa thuận cộng tác của Goleniewski với CIA hết hạn ngày 14 tháng 1 năm 1964, nhưng ngày 17 tháng 10 năm 1963 hai bên đạt được thống nhất tiếp tục. Một số nguồn tin cho rằng Goleniewski tự nguyện nghỉ việc nhưng các nguồn khác khẳng định ông bị CIA thải loại do bê bối tiểu sử cũng như mạo danh Tsesarevich Aleksey Nikolayevich với những tuyên bố khiến người Mỹ khó xử. Tác giả Angleton nói CIA chưa bao giờ gặp phải một kẻ đào tẩu có tiểu sử đời sống phức tạp như vậy. Kẻ mạo danh. Câu chuyện huyền thoại. Trong yêu cầu tị nạn chính trị, Goleniewski có một tuyên bố giật gân khác giống như kiểu bị triệu chứng rối loạn tâm thần. Ông nói Michał Goleniewski không phải tên thật mà mình chính là Aleksey Nikolaevich Romanov, thái tử Nga thoát chết khỏi vụ hành quyết nhà Ipatiev một cách thần kỳ. Goleniewski bắt đầu câu chuyện với lời khẳng định vụ hành quyết hoàng gia đêm 16-17 tháng 7 năm 1918 chỉ là hư cấu, rồi phát triển diễn biến tiếp theo đầy tính tiểu thuyết. Theo đó, Yakov Mikhailovich Yurovsky thực tế đã giúp hoàng gia trốn khỏi khỏi Yekaterinburg năm 1917. Họ ẩn náu tại Thổ Nhĩ Kỳ, qua Hy Lạp và Áo trong vài tháng, rồi đến Ba Lan là nơi có "nhiều người Nga tị nạn" và sống tại Warszawa. Nikolai II cạo hết râu ria để không ai nhận ra. Năm 1924, vì lý do an ninh, cựu sa hoàng đổi sang tên Ba Lan là "Raymund Turynsky", sa hậu đổi thành "Marie A. Kaminski", còn thái tử được đặt tên "Michał Goleniewski". Sau đó, gia đình thường trú tại Poznań, gần biên giới Đức. Câu chuyện này cho sa hoàng sống đến 84 tuổi, qua đời năm 1952 gần Poznań, còn sa hậu Aleksandra Fyodorovna qua đời năm 1924 vì đau tim. Goleniewski nói Olga, Maria và Anastasia đều còn sống, bản thân mình (Aleksey) thì phải điều trị dài ngày chứng bệnh máu không đông và sốt rét cho đến năm 1928. "Aleksey" và chị gái Anastasia đã đến Hoa Kỳ để rút tiền từ tài khoản ngân hàng tại Detroit, rồi Anastasia không quay lại Ba Lan. Olga và Tatyana chuyển đến Đức, còn "Aleksey" và Maria ở lại Poznań cùng cha. Khi bay qua Hoa Kỳ, Goleniewski nói cả bốn công chúa còn sống và ông vẫn giữ liên lạc nhưng từ chối kể thêm về họ. Năm 1930, "Aleksey" tham gia phong trào chống cộng "Tổ chức ngầm chống Bolshevik toàn Nga" do cha lập ra và lãnh đạo. Năm 1944, khi Hồng quân tiến vào, cả nhà định trốn sang Bồ Đào Nha nhưng "Aleksey" bị đầu độc nên đào tẩu bất thành. Năm 1945, ông gia nhập quân đội Ba Lan làm điệp vụ ngầm rồi chuyển sang phản gián. Khi được thăng chức, "Aleksey" có quyền truy cập thông tin mật là danh sách điệp viên KGB và Ba Lan đang hoạt động ở phương Tây, cũng như phương pháp đào tạo và tuyển mộ điệp viên đó. Khi sang Hoa Kỳ, "Aleksey" khai được cha để lại 400 đến 800 triệu đô la tại các ngân hàng phương Tây. Tháng 1 năm 1964, "Aleksey" đệ đơn lên tòa án Hamburg yêu cầu công nhận quyền thừa kế với gia sản cựu hoàng đã mất, nhấn mạnh rằng sẽ tiếp tục đòi quyền lợi đến cùng với những khoản tiền hoàng tộc gửi trong ngân hàng. Tòa không tìm ra căn cứ nào để đáp ứng yêu cầu của "Aleksey". Nghi vấn. Do Goleniewski sinh sau Aleksey Nikolaevich những 18 năm, nhiều người bắt đầu nghi ngờ rằng đây chỉ là một trong nhiều kẻ mạo danh khác, chuyên giả làm người hoàng tộc còn sống sót. Đây không phải là lần đầu tiên có người tự xưng là Aleksey còn sống, ví dụ năm 1927, một vị Yevgeny Nikolaevich Ivanov cũng rời Ba Lan đến phương Tây và bắt đầu kể về "sự cứu thoát kỳ diệu". Goleniewski giải thích ngoại hình không tương ứng với tuổi tác là do ảnh hưởng của bệnh máu khó đông, "làm chậm" sự phát triển cơ thể, viện đến chẩn đoán do bác sĩ nổi tiếng Alexander S. Wiener xác nhận. Đồng nghiệp của Wiener là bác sĩ Richard Rosenfield phản bác rằng Wiener không đủ chuyên môn để kiểm chứng, và toàn bộ giấy tờ đã biến mất sau khi ông qua đời. Một số nguồn cho rằng Goleniewski âm tính khi xét nghiệm bệnh máu khó đông. Đồng thời, Kevin Cooper đã viết rằng Goleniewski lớn lên ốm yếu, đi lại hơi khập khiễng, có thể do bị bại liệt thuở nhỏ. CIA cũng thoáng nghi ngờ Goleniewski bị rối loạn tâm thần, dù thông tin mà ông cung cấp về điệp viên Liên Xô thì chính xác đến mức đáng ngạc nhiên. Tình báo Ba Lan cũng quan ngại vì Tổng cục 1 thấy trong hồ sơ Goleniewski thiếu mất tài liệu gốc khoảng thời gian trước khi vào Bộ Công an cũng như thông tin nhân thân. Các tài liệu có thể đã bị tiêu hủy trong chiến tranh, hoặc do chính cơ quan tiêu hủy, hay bị thất lạc, cuối cùng là có thể do chính Goleniewski tiêu hủy để chỉ giữ một số bản sao. Giả thuyết cuối là có khả năng vì vào tháng 10 năm 1956, một số sĩ quan có quyền truy cập hồ sơ cá nhân của mình và có thể xóa bỏ, lấy đi những thông tin bất lợi (như vi phạm kỷ luật). Cuối cùng, theo Mechislav Rysinsky là người nhắc đến một số kết luận điều tra của Bộ Nội vụ (như việc thiếu tài liệu), Goleniewski có thể đang thực hiện nhiệm vụ mà KGB giao cho, giả làm thái tử để có quyền trên các khoản tiền hoàng gia đang gửi tại một số ngân hàng phương Tây. Phấn khích trước câu chuyện của Goleniewski, công chúng mong đợi CIA tiến hành kiểm tra để xác minh thân phận hai người này liệu có phải là một. Trong một phỏng vấn, giám đốc CIA Allen Dulles cho biết ông không định bình luận gì về tình huống như vậy trong cả hiện tại lẫn tương lai. Nhưng Goleniewski lại quả quyết hai người đã nói chuyện với nhau và Dulles nói mình sẽ không phân biệt được Goleniewski với Nikolai II nếu ông để râu. Ngày 18 tháng 10 năm 1963, tuần báo "Life" đăng bài Eugenia Smith tuyên bố mình là Nữ công tước Anastasia Nikolaevna còn sống sót. Ngày 28 tháng 12, Goleniewski gọi điện cho Smith và hẹn gặp ngày 31 tháng 12. Trong cuộc gặp gỡ, sau khi nghe câu chuyện của "Aleksey", "Anastasia" nhận đó là em trai mình, họ còn gặp lại nhau nhiều lần. Tuy nhiên, sau đó trong tự truyện, Eugenia viết mình là thành viên hoàng tộc duy nhất còn sống sót và từ chối đưa chuyện Karl Landsteiner thoát chết vào sách. Kết quả là hai người nổ ra tranh cãi. Về sau, Goleniewski cho biết Eugenia không nói dối nhưng đã bị thủ tiêu năm 1968 "theo lệnh của gia tộc Rothschild", trong khi thực tế bà vẫn sống đến năm 1997. Cuộc gặp gỡ với một kẻ mạo danh khác là Anna Anderson (hay còn gọi là Franziska Schanzkowska) diễn ra khá suôn sẻ, nhưng sau đó cả hai chẳng nhớ gì đến nhau. Người Nga nhập cư Kirill Fyodorovich Shishmarev là một trong số ít công nhận Goleniewski chính là thái tử vì đã nhiều lần gặp ông trong cung điện sa hoàng. Hôn lễ tai tiếng. Câu chuyện được thần thánh hóa năm 1964, khi tiểu ban nhập cư Hạ viện Hoa Kỳ yêu cầu CIA kêu Goleniewski làm chứng về nguồn gốc mình nhưng bị từ chối. Vào thời điểm đó, Goleniewski hai lần được gọi triệu tập đến tiểu ban Thượng viện để thẩm vấn về các điệp viên Liên Xô, nhưng không lần nào xuất hiện. Cuối cùng, thượng viện quyết định không thẩm vấn Goleniewski mà thay bằng các nhân chứng từ Bộ ngoại giao, kết quả cho thấy tính xác thực trong thông tin mà Goleniewski đã cung cấp. Cố vấn pháp lý Julien Goode Survine thuộc Ủy ban Tư pháp Thượng viện Tiểu ban An ninh Nội địa cho biết Goleniewski đòi được nói về nguồn gốc hoàng gia của mình rồi mới tiếp tục làm chứng về các điệp viên. Thượng viện coi điều này là không thể chấp nhận được. Ngày 30 tháng 9 năm 1964, sau khi bị các tiểu ban khước từ, Goleniewski tiến hành nghi thức hôn phối (của giáo hội) với Irmgard Kampf lúc ấy 35 tuổi và đang mang bầu 9 tháng. Trên giấy tờ, Goleniewski dùng tên Aleksey Nikolaevich Romanov cùng các thông tin khác như ngày sinh, nơi sinh, tên cha mẹ. Giám mục Grigory Grabbe của Chính thống giáo Nga bên ngoài nước Nga ( - ROCOR) cử hành lễ hôn phối theo nghi thức Chính thống giáo. Có hai phụ nữ đến dự mà "Aleksey" giới thiệu là chị gái "Olga Nikolaevna Romanova" và “Tatiana Nikolaevna Romanova". Bê bối ầm ĩ khi lộ ra thông tin trước đám cưới, Grabbe đã năm lần đến căn hộ của Golenevsky ở Queens, nhận hơn 10 nghìn đô la Mỹ. Vụ việc càng căng thẳng khi cộng đồng người Nga nhập cư biết Goleniewski vốn gốc Công giáo lại bỏ vợ con ở Ba Lan, còn Irmgard lại theo Tin Lành. 30 năm sau, Grabbe kể lại rằng 5 giờ sáng hôm ấy, Goleniewski gọi điện mời ông đến gấp, Irmgard đã bắt đầu chuyển dạ. Đến nơi, Goleniewski cho xem giấy hôn thú ghi tên Aleksey Nikolaevich Romanov cùng tờ quyết định tòa án cho đổi tên rồi nhờ Grabbe tổ chức hôn lễ. Grabbe không thể từ chối và đồng ý thực hiện. Sau đó, Irmgard được chuyển gấp đến bệnh viện ở Manhasset, New York và hạ sinh bé gái Tatyana. Tuy nhiên, Grabbe không làm lễ rửa tội cho bé gái cũng như cho rằng không có bằng chứng thái tử còn sống sót, và hôn lễ này không đúng giáo luật. Một thời gian sau, Tatyana bị chẩn đoán viêm ruột thừa nhưng Goleniewski không đủ tiền viện phí nên phải mang con về. Goleniewski gặp vấn đề tài chính vì trợ cấp ít ỏi từ CIA (khoảng 500 đô la một tháng) cũng như không có bảo hiểm y tế. Hai vợ chồng phải vật lộn gây quỹ để có tiền viện phí, cuối cùng bác sĩ cũng thực hiện cứu chữa và chính phủ cũng phân bổ một khoản nhỏ vào phút cuối. Goleniewski coi động thái này là xúc phạm mình nên đã kiện CIA và chính quyền liên bang, yêu cầu bồi thường số tiền 9.706 đô la là khoản cần thiết giúp con mình hồi phục. Sau khi đổ vỡ hôn nhân, Goleniewski không bao giờ gặp lại con nữa. Tatyana nhiều lần viết thư cho giám mục Grigory Grabbe nhờ giúp tìm cha, nhưng ông không phản hồi với lời giải thích hoàn toàn không muốn dính líu gì tới Goleniewski. Mất uy tín. Ngày 23 tháng 12 năm 1964, trong chương trình giải trí "", giám định viên nói dối CIA Clive Baxter công khai tuyên bố ủng hộ Goleniewski là Tsaserevich, đồng thời đề cập đến kết quả giám định răng và dấu vân tay nhưng những kết quả này chưa bao giờ được công khai. Ngày 20 tháng 1 năm 1965, "Daily News" đăng bài trong đó cựu trưởng phòng thông tin và phân tích Herman Kimsey yêu cầu CIA cung cấp kết quả thẩm tra để xóa bỏ mọi nghi vấn. Ông cũng yêu cầu Allen Dulles lúc ấy đang hưu trí và người kế nhiệm là quyền giám đốc John McCone phải lên tiếng về vấn đề Goleniewski và "Aleksey", nhưng CIA một lần nữa từ chối bình luận về yêu cầu này. Toàn bộ bê bối chỉ xác nhận rằng Goleniewski chỉ là một trong số những kẻ mạo danh khác. Người ta cho rằng CIA không chỉ không tin vào những tuyên bố của Goleniewski liên quan đến nhà Romanov, mà còn tìm cách ngăn ông điều trần nguồn gốc trước Quốc hội. Để không phát sinh thêm bê bối, Goleniewski bị cho nghỉ hưu sớm năm 1964 với khoản trợ cấp khiêm tốn. Coi đây là sự xúc phạm cá nhân, Goleniewski gửi thư ngỏ đến nhiều nơi mong được hỗ trợ tài chính và pháp lý, đổ lỗi cho chính quyền không những bưng bít "sự thật" nguồn gốc mình mà còn tuyệt đường sinh nhai. Bên Ba Lan tin rằng câu chuyện nguồn gốc "hoàng gia" là chiêu bài CIA chủ ý khởi xướng ra công chúng. Tuy vậy, cả KGB và tình báo Ba Lan đều hưởng lợi từ câu chuyện mạo danh này, họ bí mật ủng hộ các nhà báo và dân biểu Mỹ "cánh tả" làm mất uy tín CIA vì đã thực thi dựa trên thông tin có được từ một kẻ mạo danh, lừa đảo và tâm thần. Danh tiếng Goleniewski bị giáng đòn nghiêm trọng khi Eckhard Mahovsky người Áo được mật vụ Ba Lan hỗ trợ để đăng bài trên tạp chí "Express" năm 1965 về gia đình bị bỏ lại của ông ở Ba Lan. Với thành tích thúc đẩy Mahovsky, đại úy Józef Mędrzycki và thiếu tá Antoni Knychała đã được lãnh đạo Tổng cục 1 thưởng lớn. Theo Franciszek Shlyahtsyts, tình báo Ba Lan cố gắng loại bỏ Goleniewski nhưng bất thành. Tình báo Ba Lan tiếp tục săn tìm Goleniewski, một trong các chiến thuật là "hun khói". Trước tiên, họ rải nhiều tài liệu khắp Hoa Kỳ cáo buộc Goleniewski gian lận và khai man. Sau đó, điệp viên Ba Lan gọi điện nặc danh tới một nhật báo tung tin về tai nạn xe hơi khiến Goleniewski tử vong, nhằm "hun" cho Goleniewski lộ diện. Chiến dịch này chỉ được nhận ra phần nào vào ngày 28 tháng 6 năm 1966, điệp viên Ba Lan gửi thư ẩn danh cho các thượng nghị sĩ và nhà báo Mỹ chỉ trích Goleniewski là lừa đảo và mạo danh. Việc này dẫn đến tổ chức tranh luận tại Thượng viện Hoa Kỳ ngày 27 tháng 7 bàn về sự kiểm soát của Quốc hội với CIA. Tổng cục 1 Bộ nội vụ PPR không chắc các thư nặc danh đó có được xem xét dùng làm tham khảo hay không. Tình báo Ba Lan coi việc "The New York Times" đăng một bài báo ẩn danh về việc CIA từ chối bình luận các tuyên bố của Goleniewski là một thắng lợi nhỏ. Thu 1967, nhà báo Leopold Dende (hay còn gọi là "Popya" và "Melya") được Tổng cục 1 tuyển mộ vào nhiệm vụ lần ra dấu vết Goleniewski, ông từng cộng tác thời gian dài với tình báo Ba Lan trước đó. Tháng 5 năm 1968, Dende báo cáo rằng đối tượng có thể đang dùng cái tên Đức "Franz Roman Oldenberg" kèm địa chỉ chi tiết. Khi kiểm tra, tình báo Ba Lan không xác định được liệu Goleniewski có sống ở đó không, cũng như ngôi nhà thiếu bảo vệ nên nghi đây là bẫy do CIA giăng ra. Từ đó về sau, Tổng cục 1 không còn thực hiện săn lùng tích cực nữa mà giới hạn chỉ giám sát thông tin về Goleniewski mà thôi. Cựu trưởng Cục 3 (Đức) Tổng cục 1 Henryk Wendrowski tuyên bố câu chuyện Goleniewski được dựng lên để chuyển hướng chú ý của tình báo phương Tây và đã khá thành công, khắc phục được hậu quả do kẻ đào tẩu gây ra. Đầu thập niên 1970, một phụ nữ giả danh Nữ công tước Maria Nikolayevna xuất hiện tại Warszawa, thậm chí một số báo ngoại quốc đã phỏng vấn và đăng ảnh "nữ công tước sống sót". Hầu hết các nhà nghiên cứu đều đồng thuận đó là mẹ của Goleniewski diễn theo mạch chuyện mạo danh của con trai. Điều này được củng cố khi nhiều điểm mâu thuẫn trong tiểu sử của Nữ công tước "còn sống" được chỉ ra. Hơn thế nữa, có ý kiến cho rằng toàn bộ vụ họp báo chẳng qua là trò chơi tình báo của Ba Lan, hoặc bà mẹ Janina đang muốn nhờ đó mà lấy được thị thực xuất cảnh. Về sau. Goleniewski sống phần đời còn lại tại Queens, New York, theo chương trình bảo vệ nhân chứng, thậm chí cả việc phẫu thuật thay đổi nhân dạng. Nhà ông được cho là gần Tòa án Hình sự Quận Queens (). Cựu điệp viên nhận khoản trợ cấp 500 đô la ít ỏi từ CIA, không đủ trang trải cuộc sống thường ngày. Goleniewski cáo buộc CIA đã vắt chanh bỏ vỏ, không cho mình làm chứng về nguồn gốc, nên đã gửi thư ngỏ đến nhiều nơi và nhiều cá nhân khác. Trong số đó có Giám đốc CIA Phó Đô đốc William Rayborn và Phó Giám đốc Điều hành (giám đốc kế nhiệm tương lai) Richard Helms, Bộ trưởng Tư pháp Hoa Kỳ Ramsey Clark, Liên đoàn Tự do Dân sự Mỹ và cả Hội Chữ thập đỏ Quốc tế. Goleniewski nhiều lần đệ đơn kiện: một vụ đòi 50 nghìn đô la tiền lương CIA không trả, vụ khác là 100 nghìn đô la bồi thường cho gia sản bị tịch thu tại Ba Lan. Từ thập niên 1970, Goleniewski xuất bản tạp chí hàng tháng Double Eagle chuyên về "chủ quyền an ninh quốc gia Hoa Kỳ và sự tồn vong của nền văn minh Cơ Đốc giáo". Ông ký tên trong tư cách Đại công tước Aleksey Nikolaevich Romanov kế vị ngai vàng Nga. Ông động đến hết các đảng phái, đăng bài viết bài Do Thái từ các thuyết âm mưu khác nhau cho đến "chính phủ hoàn cầu", cùng lời kêu gọi chống Liên Xô, cáo buộc nhiều lãnh đạo giáo hội làm việc cho KGB, kể cả tổng giám mục ROCOR Đông Hoa Kỳ và New York Filaret. Năm 1981, sau khi ROCOR tuyên thánh cho hoàng gia Nga, Goleniewski giận dữ và công khai cáo buộc ROCOR phản bội, đầy "gián điệp KGB" vì đã tước quyền kế vị ngai vàng hợp pháp của mình. Năm 1983, tình báo Ba Lan ngừng mọi hoạt động giám sát Goleniewski dựa trên thực tế không còn hành động nguy hiểm cho an ninh quốc gia. Đại tá Henryk Bosak khẳng định vụ Goleniewski vẫn là vụ phản quốc nghiêm trọng nhất 45 năm tồn tại của Cộng hòa Nhân dân Ba Lan. Cho đến cuối đời, Goleniewski vẫn khăng khăng mình là người kế vị ngai vàng Nga, một số người coi đây đơn giản chỉ là ông muốn thu hút chú ý. Các nhà báo cho rằng trong kho lưu trữ Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ có bộ Hồ sơ Romanov lưu tất cả thông tin vụ hành quyết cũng như những người tuyên bố là thành viên hoàng tộc "sống sót" nên bao gồm cả Goleniewski. Sếp cũ của Goleniewski là Witold Sienkiewicz tin rằng toàn bộ câu chuyện "người thừa kế ngai vàng" chỉ là trò chơi tình báo có kế hoạch trước nhưng bản thân không rõ chi tiết ra sao vì đã bị mất chức sau khi Goleniewski đào tẩu, nên chỉ biết chắc câu chuyện không có thật mà thôi. Năm 1988, Goleniewski được trao tặng ghi nhận công lao bảo vệ lợi ích quốc gia Hoa Kỳ trong lĩnh vực đầy rủi ro. Nhưng CIA chẳng màng quan tâm Goleniewski ra sao sau khi nghỉ hưu. Tác giả Tim Tate cho biết thư từ cũng như tài liệu CIA sau đó được giải mật cho phép mường tượng bức tranh hoạt động của Goleniewski khi chuyển phe và hợp tác với tình báo phương Tây. Tate ngạc nhiên vì tài liệu MI5 về Goleniewski thì vẫn được phân loại mật cả sau khi ông qua đời với lý do "mức độ nhạy cảm đang diễn ra" (). Ngày 12 tháng 7 năm 1993, sau bệnh tật kéo dài, Michał Goleniewski qua đời ở , New York, theo như một cựu sĩ quan tình báo đưa tin trên báo Ba Lan. Cáo phó nhắc đến lời Irmgard Kampf và con gái Tatyana cho biết Goleniewski hợp tác với CIA chỉ vì muốn ngăn chặn "quỷ dữ cộng sản". Chuyên khảo "Battleground Berlin" là tác phẩm đầu tiên xuất bản tài liệu CIA giải mật về vụ việc Michał Goleniewski, tác giả là người đứng đầu nằm vùng Berlin và cục "Nga" của CIA David Murphy và trung tướng trưởng Cục 3 "Đức" Tổng cục 1 KGB Sergey Aleksandrovich Kondrashev. Trong văn hóa đại chúng. Trong tiểu thuyết hư cấu của Waldemar Łysiak, nhân vật chính là đại tá KGB Mieczysław Geldbaum kể lại vụ Goleniewski với câu nói "đáng giá cả giải Nobel và giải Oscar cộng lại".
19,822,944
885899
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822944
Trung Serbia
Trung Serbia (), còn gọi là Serbia bản thổ (), là khu vực của Serbia nằm bên ngoài tỉnh tự trị Vojvodina ở phía bắc và lãnh thổ tranh chấp Kosovo ở phía nam. Trung Serbia là một thuật ngữ thuận tiện, không phải là đơn vị hành chính của Serbia, và không có bất kỳ hình thức quản lý riêng biệt nào. Trung Serbia là trung tâm lịch sử của Serbia hiện đại, xuất hiện từ Cách mạng Serbia (1804–1817) và các cuộc chiến sau đó chống lại Đế quốc Ottoman. Trong thế kỷ tiếp theo, Serbia dần dần mở rộng về phía nam, giành lấy Nam Serbia, Kosovo, Sandžak và Vardar Macedonia, vào năm 1918 thì sáp nhập với các lãnh thổ Nam Slav khác thành Vương quốc Nam Tư. Biên giới hiện tại của Trung Serbia được xác định sau Thế chiến II, khi Serbia trở thành một cộng hòa bên trong Cộng hòa Liên bang Xã hội chủ nghĩa Nam Tư, với Kosovo và Vojvodina là các tỉnh tự trị. Địa lý. Trung Serbia đại khái chiếm phần lãnh thổ của Serbia nằm giữa các biên giới tự nhiên bao gồm sông Danube và sông Sava (ở phía bắc), sông Drina (ở phía tây) và có biên giới "không tự nhiên" về phía tây nam với Montenegro, phía nam với Kosovo và Bắc Macedonia, và về phía đông với Bulgaria, với một dải nhỏ sông Danube giáp với Romania ở hướng đông bắc. Sông Danube và Sava chia cắt Trung Serbia với tỉnh Vojvodina của Serbia, trong khi sông Drina chia cắt Serbia với Bosnia và Herzegovina. Đại Morava là một sông lớn chảy qua Trung Serbia. phần mở rộng của ba dãy núi lớn nằm trong phạm vi của Trung Serbia: Dinaric Alps ở phía tây và nam, và Karpat và Balkan ở phía đông. Một số khu vực địa lý đáng chú ý nằm ở Trung Serbia là: Šumadija, Mačva, Thung lũng Timok (bao gồm cả Thung lũng Negotin), Pomoravlje, Podunavlje, Posavina, Podrinje, Zlatibor và Raška. Lịch sử. Trong Thời kỳ La Mã, "Moesia" là tên của một khu vực bao gồm cả Serbia. Viminacium (ngày nay là Kostolac) là thủ phủ của tỉnh Moesia Superior. Người Slav ("Sclaveni") tràn ngập vùng Balkan vào thế kỷ thứ 6 và 7. Người Serb là một bộ lạc Slav, được biết là nắm giữ khu vực mà ngày nay là tây nam Serbia vào đầu thời Trung Cổ, trong khi "Biên niên sử Hoàng gia Frank" đề cập đến Braničevci và Timočani ở phía đông vào thế kỷ thứ 9. Raška nằm ở phía tây nam là cốt lõi của nhà nước Serbia thời Trung cổ; Stari Ras được xác định là thủ đô của Đại thân vương quốc Serbia. Serbia cuối cùng mở rộng biên giới về phía đông. Khu vực gồm hầu hết Serbia bản thổ, cũng như các khu vực tại miền đông Bosnia và Herzegovina, miền bắc Montenegro, Kosovo và miền bắc Macedonia được gọi là "các vùng đất của người Serbia", được đưa vào tước hiệu của những người thống trị Serbia thời Trung cổ. Quốc vương Stefan Dragutin của Syrmia (trị vì 1282–1316) có hai thủ đô, Debrc và Beograd. Sau khi Đế quốc Serbia sụp đổ, "Serbia thuộc Moravia" dưới quyền Lazar (trị vì 1373–89) và Stefan Lazarević (trị vì 1389–1402) tương ứng với Serbia bản thổ. Kruševac là thủ đô của Serbia thuộc Moravia. Đế quốc Ottoman chinh phục khu vực vào thế kỷ 15, và thành lập Quốc gia chuyên chế Serbia, với thủ đô ở Beograd. Sau cuộc chinh phục của Ottoman đối với Quốc gia chuyên chế Serbia, sanjak Smederevo được thành lập, ban đầu đặt tại Smederevo, và cuối cùng đặt tại Beograd sau khi thành phố thất thủ năm 1521 (do đó được gọi là "Pashaluk Beograd"). Từ năm 1718 đến 1739, sanjak Smederevo bị Chế độ quân chủ Habsburg chiếm đóng, họ quản lý khu vực này với tên gọi Vương quốc Serbia. Dân quân Serbia hoạt động trên khắp Serbia bản thổ trong Chiến tranh 1737–1739. Chiến tranh kết thúc với chiến thắng của Ottoman và họ lấy lại sanjak. Nửa phía bắc của Serbia bản thổ trong một thời gian ngắn bị Habsburg chiếm đóng trong Chiến tranh 1787–1791, sau đó quay trở lại Ottoman. Với Khởi nghĩa Serbia lần thứ nhất (1804–13), sanjak trở thành một quốc gia Serbia trên thực tế, được biết đến trong lịch sử là "Serbia cách mạng". Khu vực bị Ottoman chiếm lại vào năm 1813, tuy nhiên, Khởi nghĩa Serbia lần thứ hai (1815–17) chứng kiến Serbia được công nhận là một thân vương quốc tự trị trong Đế quốc Ottoman. Năm 1878, Serbia trở thành một quốc gia hoàn toàn độc lập, đồng thời mở rộng lãnh thổ về phía đông nam. Các biên giới năm 1878 tương ứng với Trung Serbia ngày nay, ngoại trừ các phần nhỏ ở phía tây nam. Trong Chiến tranh Balkan (1912–13), Serbia tiếp tục mở rộng biên giới về phía nam, nắm quyền kiểm soát phần lớn Kosovo và Bắc Macedonia ngày nay. Việc giành thêm lãnh thổ cũng được thực hiện ở phía bắc (Vojvodina) và tây nam (vùng Sandžak) vào năm 1918, sau Chiến tranh thế giới thứ nhất. Serbia trở thành một phần của Vương quốc của người Serb, người Croat và người Slovene vào ngày 1 tháng 12 năm 1918. Serbia bản thổ không có địa vị chính trị riêng biệt trong Vương quốc; vào năm 1929, khi các tỉnh mới của Vương quốc được thành lập, Serbia bản thổ được chia thành năm "banovina"', một trong số đó (Morava Banovina) được thành lập ở phía đông với thủ phủ ở Niš. Từ năm 1941 đến năm 1944, phần lớn lãnh thổ là một phần của khu vực dưới quyền quản lý của Chính quyền quân sự tại Serbia, do Wehrmacht Đức chiếm đóng cùng một chính phủ bù nhìn Serbia. Vùng phía tây nam của Sandžak bị Ý chiếm đóng và sáp nhập vào tỉnh Montenegro thuộc Ý lân cận; miền nam Kosovo đã được sáp nhập vào Albania trong khi các phần phía đông nam được sáp nhập vào Bulgaria. Thời kỳ phe Trục chiếm đóng kết thúc vào năm 1944 khi Quân Du kích Nam Tư giải phóng Nam Tư; Serbia được thành lập với tư cách một trong những nước cộng hòa của Nam Tư mới xã hội chủ nghĩa. Năm 1945, Vojvodina và Kosovo trở thành các tỉnh tự trị bên trong Serbia, do đó phần Serbia nằm ngoài hai vùng này được gọi là "uža Srbija" ("Serbia bản thổ"). Vào đầu những năm 1990, thuật ngữ uža Srbija được thay thế bằng thuật ngữ mới Centralna Srbija ("Trung Serbia"), được sử dụng trong tất cả các ấn phẩm chính thức của chính phủ Serbia khi đề cập đến khu vực. Khi hình thành các vùng thống kê của Serbia mới vào năm 2009–10, ba vùng thống kê: Beograd, Šumadija và Tây Serbia và Nam và Đông Serbia tạo thành Trung Serbia. Hành chính. Các huyện của Serbia, theo Các khu vực thống kê của Serbia. Nhân khẩu. Các nhóm dân tộc ở Trung Serbia theo điều tra nhân khẩu năm 2022: Vào năm 2022, hầu hết các khu tự quản ở Trung Serbia có đa số là người dân tộc Serb, ba khu tự quản (Novi Pazar, Tutin và Sjenica) có đa số là người Bosniak, hai khu tự quản (Bujanovac và Preševo) có đa số là người Albania và hai khu tự quản (Bosilegrad và Dimitrovgrad) có đa số là người Bulgaria.
19,822,954
70614301
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822954
Câu lạc bộ bóng đá Sông Lam Nghệ An mùa bóng 2023–24
Mùa bóng 2023-24 là mùa giải chính thức thứ 44 trong lịch sử của câu lạc bộ bóng đá Sông Lam Nghệ An và là mùa thứ 24 liên tiếp đội bóng thi đấu tại V.League 1, giải bóng đá cấp độ cao nhất trong hệ thống giải đấu của bóng đá Việt Nam.
19,822,955
925152
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822955
Giải vô địch bóng rổ thế giới 2023 (Bảng C)
Bảng C là một trong tám bảng đấu trong giai đoạn vòng bảng của Giải vô địch bóng rổ thế giới 2023, diễn ra từ ngày 26 đến ngày 30 tháng 8 năm 2023, bao gồm các đội Hoa Kỳ, Jordan, Hy Lạp và New Zealand, trong đó Hy Lạp từng gặp New Zealand tại giai đoạn vòng bảng giải đấu trước; gặp Hoa Kỳ tại vòng 2 giải đấu trước; còn Jordan và New Zealand từng gặp nhau tại vòng loại khu vực châu Á. Mỗi đội thi đấu vòng bảng theo thể thức vòng tròn một lượt tính điểm, mỗi đội gặp nhau đúng 1 lần duy nhất, tất cả các trận đấu của bảng diễn ra tại SM Mall of Asia Arena, Pasay, Philippines. Hai đội đứng đầu bảng sẽ giành vé vào vòng 2, còn 2 đội cuối bảng sẽ phải thi đấu vòng phân hạng 17–32. Các trận đấu. "Tất cả các trận đấu được diễn ra theo (UTC+8)."
19,822,958
925152
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822958
Giải vô địch bóng rổ thế giới 2023 (Bảng D)
Bảng D là một trong tám bảng đấu trong giai đoạn vòng bảng của Giải vô địch bóng rổ thế giới 2023, diễn ra từ ngày 25 đến ngày 29 tháng 8 năm 2023, bao gồm các đội Ai Cập, México, Montenegro và Litva, trong đó Montenegro và Litva từng gặp nhau tại vòng loại khu vực châu Âu. Mỗi đội thi đấu vòng bảng theo thể thức vòng tròn một lượt tính điểm, mỗi đội gặp nhau đúng 1 lần duy nhất, tất cả các trận đấu của bảng diễn ra tại SM Mall of Asia Arena, Pasay, Philippines. Hai đội đứng đầu bảng sẽ giành vé vào vòng 2, còn 2 đội cuối bảng sẽ phải thi đấu vòng phân hạng 17–32. Các trận đấu. "Tất cả các trận đấu được diễn ra theo (UTC+8)."
19,822,976
925152
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822976
Giải vô địch bóng rổ thế giới 2023 (Bảng E)
Bảng E là một trong tám bảng đấu trong giai đoạn vòng bảng của Giải vô địch bóng rổ thế giới 2023, diễn ra từ ngày 25 đến ngày 29 tháng 8 năm 2023, bao gồm các đội Đức, Phần Lan, Úc và Nhật Bản, trong đó Đức và Úc từng gặp nhau tại vòng bảng môn bóng rổ Thế vận hội Mùa hè 2020; Đức và Phần Lan từng gặp nhau tại vòng loại khu vực châu Âu; Úc và Nhật Bản từng gặp nhau tại vòng loại khu vực châu Á 2 kỳ liên tiếp, cũng như từng gặp nhau tại tứ kết Giải vô địch bóng rổ châu Á 2022. Mỗi đội thi đấu vòng bảng theo thể thức vòng tròn một lượt tính điểm, mỗi đội gặp nhau đúng 1 lần duy nhất, tất cả các trận đấu của bảng diễn ra tại Nhà thi đấu Okinawa, Thành phố Okinawa, Nhật Bản. Hai đội đứng đầu bảng sẽ giành vé vào vòng 2, còn 2 đội cuối bảng sẽ phải thi đấu vòng phân hạng 17–32. Các trận đấu. "Tất cả các trận đấu được diễn ra theo (UTC+9)."
19,822,982
912316
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822982
Container đa phương thức
Container đa phương thức, thường được gọi là container vận chuyển hoặc ISO Container, là loại container lớn được thiết kế để chở hàng trên nhiều phương tiện khác nhau như tàu biển, đường sắt và xe tải mà không cần dỡ hàng ra. Chúng giúp lưu trữ và vận chuyển hàng hóa an toàn và hiệu quả trong hệ thống vận chuyển toàn cầu. Container đa phương thức được dùng để lưu trữ và vận chuyển hàng hóa an toàn và hiệu quả trong hệ thống vận chuyển toàn cầu, còn gọi là hệ thống vận chuyển container hóa. Còn có tên gọi khác như container hàng hóa, container vận chuyển, container biển, container đại dương, container van biển, container can biển, hay cả MILVAN, SEAVAN và RO/RO. Thuật ngữ CONEX (Box) cũng thường được sử dụng, nhưng không chính xác kỹ thuật vì nó xuất phát từ tên của một loại container CONEX thép nhỏ hơn, được sử dụng bởi Quân đội Hoa Kỳ, trước khi container ISO quốc tế ra đời. Có nhiều loại và kích thước chuẩn cho container đa phương thức, nhưng 90% thuộc loại "container hàng khô" hoặc "container mục đích chung". Chúng là hộp chữ nhật bền vững, làm bằng thép Corten chống gỉ, rộng gần 8 foot (2,44 m), và dài chuẩn là 20 hoặc 40 foot (6,10 hoặc 12,19 m), theo tiêu chuẩn ISO 668:2020. Các chiều cao tiêu chuẩn trên toàn cầu là và - những cái sau được gọi là High Cube hoặc Hi-Cube (HC hoặc HQ) containers. Tùy theo nguồn, chúng còn gọi là TEUs (đơn vị tương đương 20 feet), tượng trưng cho kích thước 20 hoặc 40 feet. Vào đầu thế kỷ 20, container đa phương thức chiều dài 40 feet xuất hiện và lan rộng vào thập kỷ 1960-1970 thông qua đổi mới của công ty vận chuyển biển Mỹ SeaLand. Giống như hộp bìa cứng và pallet, chúng giúp đóng gói hàng hóa vào lô hàng lớn hơn, tạo đơn vị hóa hàng dễ xử lý, di chuyển, xếp chồng và vận chuyển gọn gàng trên tàu và sân. Các container đa phương thức này có thiết kế chịu áp lực khi vận chuyển đa phương thức, dễ dàng xử lý và xếp chồng, và có thể được nhận biết qua dấu hiệu báo cáo độc nhất ISO 6346. Năm 2012, có khoảng 20,5 triệu container đa phương thức trên toàn cầu, phù hợp với nhiều loại hàng hóa khác nhau. Chúng đã thay thế một phần lớn hình thức truyền thống về cargo đóng gói theo kiểu bảng - vào năm 2010, container chiếm 60% lưu lượng vận chuyển biển toàn cầu. Các phương thức vận chuyển thay thế chủ yếu cho hàng chất đống bao gồm tàu, xe ô tô và đơn vị nhẹ hơn cho hàng không theo định nghĩa của IATA. Miêu tả. Chín mươi phần trăm của toàn bộ đội container toàn cầu bao gồm container "hàng khô" hoặc "đa dụng" - cả các kích thước tiêu chuẩn và đặc biệt. Và mặc dù chiều dài của các container dao động từ , theo hai báo cáo điều tra container năm 2012 khoảng 80% container trên thế giới có chiều dài tiêu chuẩn là hai mươi hoặc bốn mươi feet của thiết kế hàng khô. Những container thông thường này có dạng hộp hình chữ nhật, đóng kín, có cửa ở một đầu và được làm từ thép gân chịu thời tiết corrugated (thông thường được gọi là CorTen) với sàn bằng plywood Mặc dù việc gắn gân vào tấm kim loại dùng cho các bên cạnh và mái của container đóng góp đáng kể vào độ cứng và sức chồng xếp của container, tương tự như trong tấm sắt gân sóng hoặc trong hộp bìa gân sóng, các bên gân sóng gây ra sự cản trở động học và gây mất tới 10% nhiên liệu trong vận chuyển đường bộ hoặc đường sắt, so với xe tải bên ngoài bằng phẳng. Các container tiêu chuẩn có chiều rộng , chiều cao , mặc dù các đơn vị "High Cube" hoặc "hi-cube" cao hơn với chiều cao đã trở nên rất phổ biến trong những năm gần đây. Vào cuối năm 2013, container 40 feet high-cube đã chiếm hơn 50% trong tổng số đội container hàng hải thế giới, theo báo cáo Điều tra Container của Drewry. Khoảng 90% tổng số container trên toàn cầu có độ dài là khoảng hoặc theo đơn vị đo lường danh nghĩa, tuy nhiên, Hoa Kỳ và Canada cũng sử dụng các đơn vị dài hơn với độ dài , và . Các container ISO có các bộ phận đúc với lỗ để gắn các khóa xoay (twistlock) ở tám góc, cho phép cầm container từ trên, dưới hoặc bên hông, và chúng có thể xếp lên đến mười container cao. Mặc dù tiêu chuẩn ISO 1496 của năm 1990 chỉ yêu cầu xếp lên tới chín container cao, "và chỉ" đối với các container có trọng lượng , nhưng các tàu container cỡ lớn loại Post New Panamax và lớp Maersk Triple E hiện nay xếp chúng lên tới mười hoặc mười một container cao. Hơn nữa, các tàu như tàu Maersk Triple E Marie Maersk không còn sử dụng các ngăn riêng biệt trong khoang hàng, và các ngăn khác trên boong tàu - thay vào đó, chúng tối ưu hóa dung tích bằng cách xếp liên tục từ đáy thân tàu, lên tới 21 container cao. Điều này yêu cầu kế hoạch hóa tự động, trong đó container nặng được duy trì theo hệ thống ở dưới cùng của ngăn xếp, và container nhẹ ở phía trên - không chỉ để ổn định tàu, mà còn để tránh quá tải và sự sụp đổ của các container dưới đáy. Các container nội địa khu vực, chẳng hạn như container châu Âu, Nhật Bản và Hoa Kỳ, chủ yếu được vận chuyển bằng đường bộ và đường sắt, và thường chỉ có thể xếp lên đến hai hoặc ba container chất. Mặc dù hai đầu container khá cứng cáp, chúng có chút đàn hồi trong quá trình vận chuyển. Khả năng chứa của các container thường được đo bằng đơn vị tương đương hồi 20 feet (TEU), hay thường gọi là "teu". Một TEU tương đương với khả năng chứa hàng của một container chuẩn dài 20 feet. Tuy nhiên, đây chỉ là một con số xấp xỉ, không tính đến chiều cao của container. Ví dụ, cả container cao 9 feet 6 inch (loại high-cube) và container 20 feet mà có chiều cao 4 feet 3 inch (loại half-height) đều được tính là một TEU. Tương tự, container dài hơn thường 45 feet thường chỉ tính là hai TEU, không khác gì so với các container chuẩn dài 40 feet. Hai TEU tương đương với một FEU (đơn vị tương đương hồi 40 feet). Vào năm 2014, tổng số container trên toàn cầu đã tăng lên 36,6 triệu TEU, dựa trên Bản điều tra Container của Drewry Shipping Consultants. Ngoài ra, vào năm 2014, lần đầu tiên trong lịch sử, các container high-cube (cao hơn chuẩn) chiếm phần lớn số lượng container hoạt động, tính theo TEU. Vào năm 2019, công ty khởi nghiệp về phân tích dữ liệu vận tải toàn cầu Upply đã chú ý rằng vai trò của Trung Quốc như 'nhà máy của thế giới' đã thúc đẩy việc sử dụng các container 40 feet, trong khi container 1 TEU chỉ chiếm 20% số lượng trên các tuyến đường hàng hải chủ lực từ đông sang tây, và nhu cầu vận chuyển chúng đang giảm. Trong thế kỷ 21, thị trường đã chuyển dần sang sử dụng nhiều container high-cube dài 40 feet hơn, cả trong việc vận chuyển hàng khô và hàng lạnh. Đơn vị 40 feet đã trở thành tiêu chuẩn đến mức ngành vận tải biển giờ đây chỉ tính ít hơn 30% phí cho việc vận chuyển container 40 feet so với việc vận chuyển container 1 TEU. Mặc dù container 20 feet thường được sử dụng để vận chuyển hàng nặng và đóng góp ổn định cho cả tàu và doanh thu, các hãng vận chuyển thường phạt mạnh việc vận chuyển container 1 TEU hơn. Đối với nhà sản xuất container, container high-cube dài 40 feet đang chiếm ưu thế trong nhu cầu cả cho hàng khô và hàng lạnh. Giá sản xuất container khô thông thường dao động khoảng từ $1750 đến $2000 Mỹ kim cho mỗi đơn vị tương đương container (CEU), và khoảng 90% số lượng container trên toàn cầu được sản xuất tại Trung Quốc. Độ tuổi trung bình của đội container toàn cầu là hơn 5 năm từ cuối năm 1994 đến cuối năm 2009, điều này có nghĩa là các container vẫn được sử dụng trong hơn 10 năm. Hầm ống gù. "Hầm ống gù", một đục lỗ trong cấu trúc sàn, phù hợp với phần "ống gù" trên các xe bán trailer container chuyên dụng, là một đặc điểm bắt buộc trong cấu trúc dưới cùng của các container 1AAA và 1EEE (40- và 45-ft high-cube), và tùy chọn nhưng thường thấy trên các container có chiều cao chuẩn, dài 40 feet và hơn. Các kích thước khác. Container RACE của Úc. Ở Úc, các container RACE cũng rộng hơn một chút để phù hợp với việc sử dụng Pallet tiêu chuẩn Úc, hoặc chúng có chiều dài và chiều rộng để có thể chứa lên đến 40 pallet. Các container rộng theo tiêu chuẩn châu Âu. Các container rộng theo tiêu chuẩn châu Âu (gọi tắt là PW) rộng hơn một chút và có gân sọc bên hông nông hơn để cung cấp đủ chiều rộng bên trong, cho phép các pallet châu Âu thông thường Euro-pallet có kích thước dài và rộng, được nạp với hiệu suất và dung tích lớn hơn. Với chiều rộng bên trong thông thường khoảng , (tăng khoảng ~ so với chiều rộng thông thường của ISO là ,), các container rộng theo tiêu chuẩn châu Âu tạo ra chiều rộng sàn bên trong có thể sử dụng là , so với trong các container tiêu chuẩn. Điều này cho phép người dùng nạp hai pallet Euro cùng nhau theo chiều rộng hoặc ba pallet theo chiều dọc (nếu pallet được xếp gọn gàng, không tràn ra ngoài), trong khi trong các container tiêu chuẩn ISO, một dải chiều rộng sàn bên trong khoảng không thể được sử dụng bởi các pallet Euro. Do đó, mặc dù gần như có thể thay thế hoàn toàn: Một số container rộng theo tiêu chuẩn pallet được làm bằng cách hàn thêm bề mặt bên hông, khiến các gân sọc nổi lên ra ngoài thay vì lõm vào bên trong. Một số container rộng theo tiêu chuẩn pallet có chiều rộng chỉ , còn những cái khác có chiều rộng . Container "high-cube" rộng theo tiêu chuẩn pallet được sử dụng phổ biến, vì chúng có thể thay thế thân xe đổi chỗ thông thường cho vận chuyển bằng xe tải ở châu Âu. Liên minh châu Âu đã bắt đầu tiêu chuẩn hóa việc đóng container rộng theo tiêu chuẩn pallet trong dự án Đơn vị Tải chồng Tương hợp Châu Âu (EILU). Nhiều nhà cung cấp vận tải biển ở châu Âu cho phép sử dụng chúng trên tàu, vì chiều rộng bên ngoài của chúng so với các container tiêu chuẩn khá nhỏ, vẫn vừa vặn trong không gian gắn kết thông thường trong khoang tàu, miễn là các mẫu nút góc (cả ở sàn và trên cùng) vẫn phù hợp với các đơn vị 40-foot thông thường để xếp chồng và cố định. Container ở Bắc Mỹ. Thị trường Bắc Mỹ đã rộng rãi áp dụng container hóa, đặc biệt là cho các lô hàng trong nước cần di chuyển giữa đường bộ và đường sắt. Mặc dù chúng có vẻ tương tự với các container theo tiêu chuẩn ISO, nhưng có một số khác biệt đáng kể: chúng được coi là loại High-Cube dựa trên chiều cao tiêu chuẩn ISO , chiều rộng tương ứng với chiều rộng tối đa của các phương tiện giao thông đường bộ trong khu vực nhưng rộng hơn so với các container tiêu chuẩn ISO, và chúng thường không được xây dựng đủ mạnh để chịu được khắc nghiệt của vận chuyển biển. Container 48 feet. Các container Bắc Mỹ đầu tiên ra thị trường có chiều dài . Kích thước này được công ty vận tải container American President Lines (APL) giới thiệu vào năm 1986. Kích thước của các container phù hợp với các quy định liên bang mới được thông qua vào năm 1983, cấm các tiểu bang cấm hoạt động của xe rơ moóc đơn dài dưới 48 feet hoặc rộng 102 inches. Với chiều dài và rộng hơn , chúng có dung tích 29% lớn hơn so với container High-Cube tiêu chuẩn dài 40 feet, nhưng chi phí di chuyển bằng xe tải hoặc đường sắt gần như giống nhau. Container 53 feet. Vào cuối những năm 1980, chính phủ liên bang công bố sẽ một lần nữa cho phép tăng chiều dài của xe rơ moóc lên vào đầu năm 1990. Dự đoán đến sự thay đổi này, container dài 53 feet đã được giới thiệu vào năm 1989. Những hộp lớn này có dung tích lớn hơn 60% so với container dài 40 feet, cho phép người gửi hàng tổng hợp nhiều hàng hóa vào ít container hơn. Năm 2007, APL giới thiệu các container dài 53 feet đầu tiên có thể chịu được hành trình trên tuyến dịch vụ từ Trung Quốc Nam đến Los Angeles. Năm 2013, APL ngừng cung cấp không gian cho container dài 53 feet trên các tàu chạy quốc tế trên Thái Bình Dương của họ. Năm 2015, cả Crowley và TOTE Maritime đều thông báo xây dựng tàu container và tàu roll-on/roll-off kết hợp lần thứ hai cho thương mại Puerto Rico, với thiết kế cụ thể để tối đa hóa dung tích hàng hóa theo khối bằng cách vận chuyển container dài 53 feet, rộng . Trong lãnh thổ Canada, Oceanex cung cấp dịch vụ container dài 53 feet ra và vào Newfoundland. Container dài 53 feet cũng được sử dụng trên một số tuyến vận chuyển quốc tế châu Á Thái Bình Dương. Container 60 feet ở Canada. Vào tháng 5 năm 2017, Canadian Tire và Canadian Pacific Railway thông báo triển khai các container nội địa 60 feet đầu tiên tại Bắc Mỹ. Các container này cho phép Canadian Tire tăng khối lượng hàng hóa gửi mỗi container lên 13%. Container nhỏ. Cho đến nay, tiêu chuẩn ISO 668 chưa bao giờ định chuẩn các container có cùng chiều cao như các container 20- và 40-foot được gọi là "chiều cao tiêu chuẩn", . Theo tiêu chuẩn ISO, container 10-foot (bao gồm cả các loại hộp 5-ft và 6-ft trong quá khứ) chỉ có chiều cao là 8-foot (2.44 m) và không có tên gọi cụ thể. Tuy nhiên, trong ngành công nghiệp, các đơn vị 10-foot thường được làm với chiều cao , để phù hợp hơn, cùng xếp chồng tốt hơn với các container cao 8 ft 6 in trong các tập đoàn container dài hơn. Ngược lại, các đơn vị nhỏ hơn không còn tuân theo tiêu chuẩn, dẫn đến chiều dài không đồng đều, như hoặc , với chiều rộng không tiêu chuẩn lần lượt là 2.20 m / 86.6 in và 1.95 m / in, cùng với chiều cao không tiêu chuẩn lần lượt là 2.26 m / 7 ft 5 in và 1.91 m / 6 ft 3.2 in, phù hợp cho việc lưu trữ hoặc sử dụng ngoài biển. Quân đội Hoa Kỳ. Quân đội Hoa Kỳ tiếp tục sử dụng các container nhỏ, rất giống với các container Transporter và Conex từ những năm 1950 và 1960. Chúng chủ yếu tuân theo các kích thước tiêu chuẩn ISO trước đây, hoặc là dẫn xuất trực tiếp từ chúng. Thuật ngữ hiện tại trong lực lượng vũ trang Hoa Kỳ gọi những container nhỏ này là Bicon, Tricon và Quadcon, với kích thước tương ứng với các kích thước tiêu chuẩn ISO 1D, 1E và 1F trước đây. Những container này có chiều cao chuẩn là 8 feet (khoảng 2,4 mét), và có kích thước bề mặt chân lần lượt gấp một nửa (Bicon), một phần ba (Tricon) hoặc một phần tư (Quadcon) so với kích thước của một container 20 feet tiêu chuẩn, còn gọi là một TEU. Với chiều dài tối thiểu là 10 feet (khoảng 3 mét), hai container Bicon được kết nối theo chiều dài tương đương với một container ISO 20 feet. Tuy nhiên, chiều cao của chúng chỉ còn thiếu 6 inch (khoảng 15 mm) so với chiều cao tiêu chuẩn của các container ISO 10 feet thông thường, là 8 feet 6 inch (khoảng 2,6 mét). Container Tricon và Quadcon phải được kết nối theo chiều ngang - ba hoặc bốn cái liên tiếp - để có thể xếp chồng lên các container 20 feet. Chiều dài 8 feet của chúng tương ứng với chiều rộng của một container 20 feet tiêu chuẩn, đó là lý do tại sao có lỗ cắm xe nâng ở cả hai đầu và cả hai bên của những hộp này, và cửa chỉ có một thanh khóa duy nhất. Chiếc Quadcon nhỏ nhất có hai chiều cao khác nhau: 96 inch (khoảng 2,4 mét) hoặc 82 inch (khoảng 2,1 mét). Chỉ có chiều cao 96 inch đáp ứng kích thước tiêu chuẩn ISO-668 (kích thước 1F). Nhật Bản: Container 12 feet. Trong vận chuyển hàng hóa bằng đường sắt nội địa tại Nhật Bản, hầu hết các container có chiều dài để phù hợp với kích thước tiêu chuẩn của pallet đặc biệt của Nhật. Mã báo cáo. Mỗi container được gán một mã báo cáo tiêu chuẩn (mã sở hữu), bao gồm bốn chữ cái kết thúc bằng U, J hoặc Z, theo sau là sáu chữ số và một chữ số kiểm tra. Mã sở hữu cho container đa phương thức được cấp bởi (Văn phòng container quốc tế, viết tắt là B.I.C.) tại Pháp, do đó tên "Mã BIC" cho mã báo cáo container đa phương thức. Cho đến nay, chỉ có mã BIC dài bốn chữ cái kết thúc bằng U. Các container vận chuyển có các mã nhận dạng như mã nhà sản xuất, mã sở hữu, mã phân loại sử dụng, biển UN cho hàng nguy hại và mã tham khảo cho kiểm soát và bảo mật vận chuyển. Liên minh châu Âu đã bắt đầu dự án Đơn vị Nạp hàng Đa phương thức (ILU) sau khi sử dụng rộng rãi container rộng pallet ở châu Âu. Dự án này cho thấy ưu điểm của vận chuyển đa phương thức container và swap body. Mã ILU mới đã được giới thiệu theo tiêu chuẩn EN 13044, tương tự như mã BIC trước đây. Mã sở hữu của container đa phương thức do Văn phòng container quốc tế BIC cấp kết thúc bằng U, J hoặc Z. Các dấu báo cáo sở hữu cho swap body kết thúc bằng A, B, C, D hoặc K sẽ được cấp bởi Văn phòng phân bổ mới của Liên minh Quốc tế Công ty Vận tải Đường sắt và Đường bộ Kết hợp (UIRR). Từ tháng 7 năm 2011, mã ILU mới có thể đăng ký, và từ tháng 7 năm 2014, tất cả container ISO đa phương thức và swap body đa phương thức phải có mã sở hữu. Từ tháng 7 năm 2019, tất cả chúng phải mang một biển ghi phù hợp theo tiêu chuẩn. Xử lý. Container di chuyển giữa tàu, xe tải và tàu bằng cần cẩu container tại cảng. Forklift, reach stacker, straddle carrier, container jack và cần cẩu có thể được sử dụng để nạp và dỡ hàng từ xe tải hoặc tàu hỏa ngoài cảng. Swap body, sidelifter, xe tải nâng bằng sàn và xe tải có cần cẩu cho phép chuyển hàng tới và từ xe tải mà không cần thiết bị thêm. Container tiêu chuẩn ISO có thể được xử lý và nâng bằng nhiều cách thông qua các thiết bị gắn ở góc container, nhưng container dài 45 feet (loại E) có hạn chế trong việc nâng bên hông và không thể nâng bằng forklift, theo tiêu chuẩn ISO 3874 (1997). Vận tải. Container có thể được vận chuyển bằng tàu container, xe tải và xe tàu hàng trong cùng một hành trình mà không cần gỡ gói hàng. Các đơn vị có thể được cố định bằng các điểm "khóa vặn" nằm ở mỗi góc của container. Mỗi container đều có mã độc đáo BIC được sơn bên ngoài để nhận dạng và theo dõi, và có khả năng chứa lên đến 20-25 tấn. Chi phí vận chuyển được tính theo đơn vị tương đương 20 feet (TEU). Đường sắt. Trong vận chuyển đường sắt, container có thể được chở trên các toa xe thẳng hoặc toa xe chứa hàng đặc biệt. Những toa xe chứa hàng này được thiết kế đặc biệt để vận chuyển container và có thể chứa nhiều container xếp chồng lên nhau. Tuy nhiên, kích thước tiêu chuẩn của đường sắt có thể hạn chế các phương thức và loại vận chuyển container. Các hệ thống đường sắt ở châu Âu thường có kích thước tiêu chuẩn nhỏ hơn, chỉ cho phép chứa container xếp một tầng. Ở một số nước như Vương quốc Anh, có các phần của mạng lưới đường sắt không cho phép container loại high-cube đi qua, hoặc chỉ có thể đi qua trên các toa xe đặc biệt. Tuy nhiên, Indian Railways vận hành container xếp chồng lên nhau trên toa xe thẳng dưới dây điện 25 kV AC. Dây điện phải cách mặt đường ít nhất 7,45 mét. China Railway cũng vận hành container xếp chồng lên nhau dưới dây điện, nhưng phải sử dụng các toa xe đặc biệt vì dây điện chỉ cách mặt đường 6,6 mét. Biển. Khoảng 90% hàng hóa không chất đống trên thế giới được chuyển bằng container. Các tàu container lớn nhất có thể mang hơn 19.000 TEU (tương đương số container kích thước 20 feet). Trong giai đoạn từ 2011 đến 2013, trung bình có khoảng 2.683 container bị mất trên biển. Ước tính khác lên tới 10.000 container; trong số này, dự kiến có 10% chứa hóa chất độc hại cho đời sống biển. Có nhiều hệ thống khác nhau được sử dụng để cố định container trên tàu. Tình trạng mất container trên biển thường thấp. Hàng không. Container cũng có thể được vận chuyển bằng máy bay, nhưng thường ít được sử dụng vì chi phí cao và khó tìm máy bay phù hợp. Có container hàng không đặc biệt, nhỏ hơn, gọi là đơn vị thiết bị tải hàng. An toàn và bảo mật. Có nhiều cách và vật liệu đã được thiết lập từ lâu để đảm bảo container đa phương thức được ổn định và bảo vệ khi được đặt lên tàu, cũng như bảo vệ hàng hóa bên trong. Các phương pháp và vật liệu truyền thống như dây thép buộc và khối gỗ đỡ đã tồn tại hàng thập kỷ và vẫn được sử dụng rộng rãi. Hiện nay, việc sử dụng dây đeo polyester và dây tổng hợp cũng rất phổ biến. Để giữ hàng hóa cố định, túi đỡ (còn gọi là "túi khí") được sử dụng. Ngoài ra, các Flexi-bag cũng có thể được đặt trực tiếp và xếp chồng trong các container chất lượng thực phẩm. Thực tế, hình dáng chuẩn của chúng phủ toàn bộ diện tích sàn container ISO 20 ft. Sử dụng mục đích khác. Thiết bị đóng container. Các đơn vị kích thước container thường được sử dụng để chuyển thiết bị lớn đến các vị trí tạm thời. Các container chuyên dụng đặc biệt hấp dẫn với quân đội sử dụng container để di chuyển hàng hóa. Việc di chuyển thiết bị đặc biệt này giúp đơn giản hóa logistics và ngăn ngừa việc định danh thiết bị có giá trị cao bởi kẻ thù. Hệ thống như này có thể bao gồm cơ sở điều khiển, phòng mổ di động hoặc thậm chí là pháo đài tên lửa (như tên lửa bề mặt-bề mặt 3M-54 Klub của Nga). Các hệ thống xử lý nước hoàn chỉnh có thể được lắp đặt trong các container và vận chuyển khắp thế giới. Máy phát điện có thể được lắp đặt cố định trong các container để sử dụng làm nguồn điện di động. Tái sử dụng. Một nửa số container nhập cảnh vào Hoa Kỳ rời đi trống rỗng. Chúng thường có giá trị thấp hơn tại Hoa Kỳ so với Trung Quốc, nên thường được sử dụng cho các mục đích khác, thường là khi hết cuộc hành trình. Quân đội Hoa Kỳ thường dùng container Conex làm kho chứa tại hiện trường hoặc nhà ở di động cho nhân sự chỉ huy và phòng khám y tế. Gần hết tất cả hơn 150.000 container Conex vận chuyển đến Việt Nam đã ở lại trong nước, chủ yếu dùng làm kho chứa hoặc cơ sở di động khác. Đặt cố định hoặc bán cố định container để làm kho chứa là phổ biến. Một container thông thường có kích thước bốn mươi feet có khoảng thép, cần tới năng lượng để nấu chảy. Tái sử dụng container vận chuyển ngày càng trở thành giải pháp thực tế cho cả vấn đề xã hội và môi trường. Kiến trúc container vận chuyển sử dụng container cũ làm khung cho ngôi nhà modul, với thép được tích hợp trong thiết kế hoặc che giấu trong ngôi nhà truyền thống. Chúng cũng được áp dụng để tạo cửa hàng tạm thời, quán cà phê, trung tâm dữ liệu máy tính như Sun Modular Datacenter. Tuy container đa phương thức không đủ mạnh để chuyển đổi thành bunkers ngầm mà không cần thêm cấu trúc cường độ, vì tường không thể chịu được áp lực nằm ngang và có thể gãy. Ngoài ra, sàn gỗ của nhiều container cũ có thể chứa hóa chất diệt côn trùng, khiến chúng không phù hợp cho không gian hạn chế như tù hoặc bunkers. Vệ sinh hoặc thay thế sàn gỗ có thể biến container cũ thành nơi ở, cần quan tâm đến thông gió và "cách nhiệt".
19,822,984
925152
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822984
Giải vô địch bóng rổ thế giới 2023 (Bảng F)
Bảng F là một trong tám bảng đấu trong giai đoạn vòng bảng của Giải vô địch bóng rổ thế giới 2023, diễn ra từ ngày 26 đến ngày 30 tháng 8 năm 2023, bao gồm các đội Slovenia, Cabo Verde, Gruzia và Venezuela. Trong bảng đấu này, có hai đội tuyển làm nên lịch sử khi có lần đầu tiên tham dự giải đấu, đó là Cabo Verde và Gruzia. Mỗi đội thi đấu vòng bảng theo thể thức vòng tròn một lượt tính điểm, mỗi đội gặp nhau đúng 1 lần duy nhất, tất cả các trận đấu của bảng diễn ra tại Nhà thi đấu Okinawa, Thành phố Okinawa, Nhật Bản. Hai đội đứng đầu bảng sẽ giành vé vào vòng 2, còn 2 đội cuối bảng sẽ phải thi đấu vòng phân hạng 17–32. Các trận đấu. "Tất cả các trận đấu được diễn ra theo (UTC+9)."
19,822,992
925152
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822992
Giải vô địch bóng rổ thế giới 2023 (Bảng G)
Bảng G là một trong tám bảng đấu trong giai đoạn vòng bảng của Giải vô địch bóng rổ thế giới 2023, diễn ra từ ngày 26 đến ngày 30 tháng 8 năm 2023, bao gồm các đội Iran, Tây Ban Nha, Bờ Biển Ngà và Brasil, trong đó Iran và Tây Ban Nha từng nằm chung bảng với nhau tại giai đoạn vòng bảng giải đấu trước. Mỗi đội thi đấu vòng bảng theo thể thức vòng tròn một lượt tính điểm, mỗi đội gặp nhau đúng 1 lần duy nhất, tất cả các trận đấu của bảng diễn ra tại Nhà thi đấu Indonesia, Jakarta, Indonesia. Hai đội đứng đầu bảng sẽ giành vé vào vòng 2, còn 2 đội cuối bảng sẽ phải thi đấu vòng phân hạng 17–32. Các trận đấu. "Tất cả các trận đấu được diễn ra theo (UTC+7)."
19,822,997
88862
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822997
Roy và Silo
Roy và Silo (sinh 1987) là hai cá thể chim cánh cụt quai mũ đực ở Sở thú Công viên Trung tâm của Thành phố New York. Vào năm 1998, các nhân viên sở thú đã ghi nhận chúng đang thực hiện các hoạt động giao phối, và một trong số chúng vào năm 1999 đã cố gắng ấp một tảng đá như thể nó là một quả trứng. Điều này đã truyền cảm hứng cho những người trông coi vườn thú khi đưa cho chúng một quả trứng từ một cặp chim cánh cụt khác, vốn không thể ấp nở trứng, dẫn đến việc cả hai cùng nuôi một cá thể chim cánh cụt con tên là Tango. Bản thân Tango cũng rơi vào hoàn cảnh tương tự với những con chim cánh cụt cái khác. Roy và Silo cách xa nhau sau vài năm, và vào năm 2005, Silo kết đôi với một con chim cánh cụt cái tên là Scrappy. Câu chuyện của Roy và Silo tạo ý tưởng cho một cuốn sách thiếu nhi và đã được dựng thành một vở kịch. Hoạt động cho các cặp chim cánh cụt đực nhận nuôi trứng đã được lặp lại ở các vườn thú khác trên thế giới. Cả Tango và Roy đều đã chết. Lịch sử. Roy và Silo gặp nhau tại sở thú và bắt đầu mối quan hệ của mình vào năm 1998. Người ta quan sát thấy họ đang tiến hành các hành vi giao phối đặc trưng của loài bao gồm quấn cổ và gọi bạn tình. Năm 1999, người ta quan sát thấy cặp đôi này đang cố gắng ấp một hòn đá giống như đang ấp trứng. Chúng cũng định ăn trộm trứng của các cặp chim cánh cụt khác. Khi nhân viên sở thú nhận ra rằng Roy và Silo đều là con đực, họ đã kiểm tra thêm bằng cách thay tảng đá bằng một quả trứng giả làm bằng đá và thạch cao. Vì chúng "ấp rất tốt", những người trông coi vườn thú đã nảy ra ý định đưa cho chúng quả trứng thứ hai của một cặp chim cánh cụt, vốn trước đây đã không thể ấp thành công hai quả trứng cùng một lúc. Roy và Silo đã ấp quả trứng trong 34 ngày và thêm hai tháng rưỡi để nuôi một con chim con cái khỏe mạnh tên là "Tango". Khi đến tuổi sinh sản, Tango kết đôi với một con chim cánh cụt cái khác tên là Tanuzi. Tính đến năm 2005, cả hai đã kết đôi trong hai mùa giao phối. Ngay sau khi câu chuyện của chúng được đăng tải trên báo chí, Roy và Silo bắt đầu xa nhau sau khi có một cặp chim cánh cụt hung dữ hơn buộc chúng phải rời khỏi tổ. Năm 2005, Silo tìm được một bạn tình khác, là một con chim cái tên là Scrappy, được đưa đến từ SeaWorld Orlando vào năm 2002, trong khi Roy vẫn sống độc thân. Cả Tango và Roy đều đã chết. Tác động. Roy và Silo không phải là cặp chim cánh cụt đực đồng giới đầu tiên được biết đến ở New York, vì cặp chim cánh cụt tên Wendell và Cass tại Thủy cung New York đã được báo cáo trước vào năm 2002. Tuy nhiên, sự chú ý lần đầu tiên đổ dồn vào Roy và Silo sau khi "The New York Times" đăng một câu chuyện về chúng vào tháng 5 năm 2004. Bài báo mô tả chúng là "gay penguins" ("chim cánh cụt đồng tính") và liệt kê hai cặp chim cánh cụt khác ở New York cũng có hành vi tương tự. Câu chuyện của Roy và Silo là nguồn cảm hứng cho hai cuốn sách thiếu nhi, "And Tango Makes Three" của Justin Richardson và Peter Parnell và được Henry Cole minh họa, và bản tiếng Đức "Zwei Papas für Tango" ("Two Daddies for Tango") của Edith Schrieber-Wicke và Carola Holland. Riêng "And Tango Makes Three" đã gây ra tranh cãi, bị liệt vào danh sách một trong mười cuốn sách bị cấm nhiều nhất trong các thư viện công cộng và trường học trên khắp nước Mỹ trong 5 năm liên tiếp, nhưng lại trở thành sách bán chạy nhất. Roy và Silo cũng được chọn làm nhân vật trong các tác phẩm sân khấu, bao gồm vở kịch "Birds of a Feather", một tác phẩm do nhân vật tự diễn về cả mối quan hệ đồng tính và dị tính, ra mắt lần đầu ở Fairfax, Virginia vào tháng 7 năm 2011 "And Then Came Tango", một vở kịch/vở ballet dành cho khán giả trẻ của Emily Freeman, được công chiếu lần đầu trong Lễ hội Tác phẩm mới Cohen ("Cohen New Works Festival") vào tháng 3 năm 2011 tại Đại học Texas tại Austin. "The Austin Chronicle" đã công nhận công trình với một giải thưởng Danh dự trong "10 kỳ quan sân khấu hàng đầu của năm 2011" ("Top 10 Theatrical Wonders of 2011"). Một số nhóm đã nhảy vào cuộc chia tay của cặp đôi như một chiến thắng cho lý tưởng của họ. Warren Throckmorton, thông qua tổ chức quyền Cơ đốc Focus on the Family, cho biết: "Đối với những người đã coi Roy và Silo là hình mẫu cho tất cả chúng ta, những hành vi này chắc chắn đáng thất vọng. Một số nhà hoạt động đồng tính thực sự có thể tức giận." Người phát ngôn của Lực lượng Đặc nhiệm LGBTQ Quốc gia đã trả lời bằng cách giải thích rằng hành động của hai chú chim cánh cụt không phải là cách hay để trả lời câu hỏi liệu xu hướng tính dục là một sự lựa chọn hay một quyền bẩm sinh. Một nghiên cứu năm 2010 của Trung tâm Sinh thái Tiến hóa và Chức năng của Pháp cho thấy giao phối đồng tính ở chim cánh cụt rất phổ biến, nhưng những hành vi giao phối như vậy thường không kéo dài quá một vài năm. Việc công khai chủ đề này đã gây ra sự phản đối kịch liệt trong cộng đồng người đồng tính nam và đồng tính nữ khi những câu chuyện được đăng tải về việc những người trông coi vườn thú buộc phải tách các cặp chim cánh cụt đồng giới. Sự suy giảm số lượng cá thể của một số loài chim cánh cụt đã góp phần dẫn đến những quyết định đó. Việc cho một cặp chim cánh cụt đồng giới nhận nuôi một quả trứng hoặc một con chim con theo cách tương tự như Roy và Silo đã được lặp đi lặp lại nhiều lần. Năm 2009, các nhân viên vườn thú ở Đức đã giao một quả trứng cho một cặp chim cánh cụt Humboldt đồng giới đực tên là Z và Vielpunkt, và chúng đã ấp trứng và nuôi chim con. Năm 2011, những người quản lý vườn thú ở Trung Quốc đã giao một chú chim con cho một cặp chim cánh cụt đực đồng giới chăm sóc sau khi rõ ràng là bố mẹ ruột của con chim con này không thể cả chăm sóc hai chim con. Năm 2018, tại Sealife Sydney ở Úc đã chứng kiến ​​hai con chim cánh cụt Gentoo đực ấp thành công một quả trứng, sau khi thử nghiệm bằng một quả trứng giả. Năm 2020, cặp này ấp nở quả trứng thứ hai và chim con đầu tiên của chúng cũng có con của riêng mình. Sở thú Công viên Trung tâm cũng có các cặp đồng giới khác, với một cặp đồng tính nam (tên là Squawk và Milo) và một cặp đồng tính nữ (tên là Georgey và Mickey) đang thực hiện hành vi tán tỉnh. Năm 2014, những người trông coi vườn thú tại Công viên động vật hoang dã Wingham, ở Kent, Vương quốc Anh, đã giao một quả trứng bị mẹ nó bỏ rơi sau khi chim bố từ chối giúp ấp nó cho một cặp chim cánh cụt Humboldt đồng giới đực tên là Jumbs và Kermit. Chủ sở hữu công viên đã tuyên bố trong một cuộc phỏng vấn của BBC: "Hai con chim này cho đến nay đã được chứng minh là hai trong số những cặp chim cánh cụt bố mẹ tốt nhất mà chúng tôi từng có."
19,823,001
925152
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19823001
Giải vô địch bóng rổ thế giới 2023 (Bảng H)
Bảng H là một trong tám bảng đấu trong giai đoạn vòng bảng của Giải vô địch bóng rổ thế giới 2023, diễn ra từ ngày 25 đến ngày 29 tháng 8 năm 2023, bao gồm các đội Canada, Latvia, Liban và Pháp. Mỗi đội thi đấu vòng bảng theo thể thức vòng tròn một lượt tính điểm, mỗi đội gặp nhau đúng 1 lần duy nhất, tất cả các trận đấu của bảng diễn ra tại Nhà thi đấu Indonesia, Jakarta, Indonesia. Hai đội đứng đầu bảng sẽ giành vé vào vòng 2, còn 2 đội cuối bảng sẽ phải thi đấu vòng phân hạng 17–32. Các trận đấu. "Tất cả các trận đấu được diễn ra theo (UTC+7)."
19,823,002
878555
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19823002
Gerasimos Mitoglou
Gerasimos Mitoglou (; sinh ngày 20 tháng 10 năm 1999) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Hy Lạp hiện tại đang thi đấu ở vị trí trung vệ cho câu lạc bộ AEK Athens tại Giải bóng đá vô địch quốc gia Hy Lạp. Sự nghiệp thi đấu. Volos. Vào ngày 9 tháng 7 năm 2019, Mitoglou gia nhập câu lạc bộ Volos theo dạng chuyển nhượng tự do. Vào ngày 15 tháng 2 năm 2021, anh đã gia hạn hợp đồng với đội bóng, có thời hạn đến mùa hè năm 2024. Ngày 10 tháng 4 năm 2021, anh ghi bàn thắng chuyên nghiệp đầu tiên trong chiến thắng 3–1 trên sân nhà trước Panetolikos. AEK Athens. Vào ngày 25 tháng 5 năm 2021, Mitoglou đã ký hợp đồng với câu lạc bộ AEK Athens, sau thông báo của Volos trên mạng xã hội, nói rằng họ đã đạt được thỏa thuận với AEK để bán Mitoglou cho họ, theo bản hợp đồng kéo dài đến tháng 6 năm 2025. Vào ngày 11 tháng 6 năm 2021, bản hợp đồng kéo dài 4 năm đó trở nên chính thức. Vào ngày 31 tháng 10 năm 2021, anh đã ghi bàn thắng đầu tiên cho câu lạc bộ trong trận thắng quan trọng 2-1 trên sân nhà trước Aris Thessaloniki. Đời tư. Cha của Mitoglou, Dimitrios, là một cựu cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp, còn anh trai Dinos là cầu thủ bóng rổ quốc tế.
19,823,013
912316
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19823013
Quân khu Nam (Liên bang Nga)
Quân khu Nam (tiếng Nga: Южный военный округ) là một trong năm quân khu của Lực lượng Vũ trang Liên bang Nga, chịu trách nhiệm bảo vệ khu vực Bắc Kavkaz của đất nước và các căn cứ của Nga ở các quốc gia hậu Xô Viết ở Nam Kavkaz. Bộ tư lệnh Quân khu đóng ở Rostov trên sông Đông. Quân khu Nam được thành lập như một phần của cuộc cải cách quân sự năm 2008 và được thành lập theo Nghị định của Tổng thống số 1144 ký ngày 20 tháng 9 năm 2010 để thay thế Quân khu Bắc Kavkaz và tiếp thu các chỉ huy quân sự của Hạm đội Biển Đen và Hải đội Caspi. Quân khu Nam là quân khu nhỏ nhất ở Nga xét theo quy mô địa lý, bao gồm hai vùng liên bang Phía Nam và Bắc Kavkaz. Từ khi Nga xâm lược Ukraina, Quân khu Nam còn bao gồm cả sáu tỉnh Ukraina bị chiếm đóng bao gồm Krym, Donetsk, Kherson, Lugansk, Sevastopol và Zaporozhye. Tuy nhiên, Quân khu Nam chỉ tham chiến ở khu vực Donetsk (cánh quân Yug) và khu vực Kherson, Zaporozhye (cánh quân Dniepr) Tư lệnh quân khu hiện tại là Thượng tướng Sergey Yuryevich Kuzovlev, người giữ chức vụ này từ ngày 23 tháng 1 năm 2023.
19,823,019
889492
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19823019
Hợp chất chuỗi tuyến tính
Trong hoá học và khoa học vật liệu, hợp chất chuỗi tuyến tính là các vật chất được cấu thành từ các chuỗi một chiều các phân tử hoặc ion liên kết kim loại-kim loại. Các hợp chất như thế thể hiện tính chất dẫn điện bất đẳng hướng. Các ví dụ. Hầu hết các ví dụ bao gồm các hợp chất phức vuông. Do đó, khi kết tủa, các phân tử đắp chồng lên với các khoảng cách vào khoảng 326 pm. Các ví dụ điển hình bao gồm muối Krogmann và muối xanh lục Magnus. Một ví dụ khác là các biến thể đã bị ôxi hoá một phần của . Ngoài ra còn có hợp chất phức thông thường có biến thể mang tính chất dẫn điện thông qua sự ôxi hoá, ví dụ như bromine cho ra , với x ~0.05. Các hợp chất clo có các công thức và . Trái ngược với các hợp chất chuỗi tuyến tính, các chuỗi nguyên tử kim loại mở rộng (EMACs) là các phân tử hoặc ion có chứa các chuỗi hữu hạn, thường là ngắn và tuyến tính của các nguyên tử kim loại, bao quanh bởi các phối tử hữu cơ. Một nhóm các chuỗi bạch kim dựa trên việc chuyển đổi qua lại các cation và anion của (R = "i"Pr, , ) và . Các hợp chất này có thể được sử dụng làm vật liệu cảm biến hơi vapochromic, hoặc các vật liệu đổi màu khi tiếp xúc với các loại hơi khác nhau. Các chuỗi tuyến tính của các liên kết Pd-Pd được bảo vệ bởi một "màng electron-π" đã được biết tới. Các chuỗi kim loại đã được ổn-định-hoá-olefin cấu thành một mảng quan trọng cho ngành hoá hữu cơ kim loại, đồng thời cả các cấu trúc nguyên tử kim loại hợp chất phức và các phối tử olefin chính nó có tính chất dẫn điện. Nghiên cứu phương pháp. Một số hợp chất chuỗi tuyến tính là sản phẩm hoặc được xây dựng bởi tinh thể hoá bằng dòng điện. Kỹ thuật này được sử dụng để thu về các tinh thể đơn lẻ của các chất dẫn điện chiều thấp.
19,823,026
912316
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19823026
Muối Krogmann
Muối Krogmann là một hợp chất chuỗi tuyến tính, bao gồm các lớp tetracyanoplatinate. Thỉnh thoảng được mô tả như các dây dẫn điện phân tử, muối Krogmann thể hiện tính dẫn điện bất đẳng hướng. Vì lý do đó, muối Krogmann và các vật chất liên quan là mối quan tâm của ngành công nghệ nano. Lịch sử và danh xưng. Muối Krogmann lần đầu được tổng hơp bởi Klaus Krogmann vào cuối thập niên 1960. Muối Krogmann được đề cập đến nhiều nhất là một hợp chất phức kim loại bạch kim có công thức K2[Pt(CN)4X0.3] với X thông thường là brôm (hoặc thỉnh thoảng clo). Có nhiều muối kim loại phi cân bằng có chứa anion phức [Pt(CN)4]n− cũng có thể được ghi nhận. Cấu trúc và các tính chất vật lý. Muối Krogmann là một chuối các hợp chất phức tetracyanoplatinate được ôxi hoá một phần, liên kết bởi các liên kết bạch kim-bạch kim ở các mặt trên cùng và dưới cùng của các anion mặt phẳng [Pt(CN)4]n−. Loại muối này hình thành các lớp thể rắn dựa trên sự chồng chất của các orbital dz2. Muối Krogmann có cấu trúc tinh thể tetragonal với khoảng cách Pt-Pt vào khoảng 2.880 angstrom, ngắn hơn gấp nhiều lần khoảng cách liên kết kim loại-kim loại trong các hợp chất phức bạch kim khác như là Ca[Pt(CN)4]·5H2O (3.36 angstrom), Sr[Pt(CN)4]·5H2O (3.58 angstrom), và Mg[Pt(CN)4]·7H2O (3.16 angstrom). Khoảng cách Pt-Pt trong muối Krogmann chỉ 0,1 angstrom dài hơn trong muối bạch kim. Mỗi một đơn vị tế bào có chứa một vùng cho ion Cl−, tương ứng với 0,5 Cl− trên mỗi nguyên tử bạch kim. Mặc dù vậy, vùng này chỉ chiếm 64% thời gian, cho ra 0.32 Cl− trên mỗi nguyên tử bạch kim trong hợp chất thực sự. Bởi vì điều này, số ôxi hoá của bạch kim không tăng quá +2.32. Muối Krogmann không có miền pha có thể nhận diện được và được đặc trưng bởi các băng intervalence cường độ mạnh trong phổ spectra điện tử của nó. Tính chất hoá học. Một trong những tính chất được nghiên cứu rộng rãi nhất của muối Krogmann đó là khả năng dẫn điện bất thường. Bởi vì cấu trúc chuỗi tuyến tính của nó và sự bồi đắp của các orbital formula_1 bạch kim, muối Krogmann là một ứng cử viên sáng giá bởi tính chất dẫn điện của nó. Tính chất này khiến cho nó trở thành một loại vật liệu đáng chú ý cho ngành công nghệ nano. Chuẩn bị. Việc chuẩn bị thông thường của muối Krogmann yêu cầu sự bay hơi của một hỗn hợp tỷ lệ mol 5:1 các muối K2[Pt(CN)4] và K2[Pt(CN)4Br2] trong nước để cho ra các ống kim ánh màu đồng của K2[Pt(CN)4]Br0.32·2.6 H2O. Bởi sự dư thừa các phức chất PtII hoặc PtIV tinh thể hoá cùng với sản phẩm khi tỷ lệ phản ứng bị thay đổi, sản phẩm do đó được xác định rõ ràng, mặc dù phi cân bằng non-stoichiometric. Sử dụng. Chưa có muối Krogmann hoặc bất kỳ vật liệu liên quan nào có ứng dụng thương mại cả.
19,823,037
845147
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19823037
Xu thỏi
Xu thỏi (tiếng Anh: "bullion coin" hoặc "Specie") là đồng xu được đúc từ kim loại quý (thỏi) với tỷ lệ kim loại quý đạt độ tinh khiết cao và được lưu giữ như một vật lưu trữ giá trị hoặc một khoản đầu tư thay vì được sử dụng trong tiêu dùng và thương mại hàng ngày. Một đồng xu thỏi được phân biệt bằng trọng lượng (hoặc khối lượng) và độ tinh khiết trên đồng xu. Không giống như các dạng kim loại lưu trữ giá khác, đồng xu thỏi được đúc bởi các cơ quan đúc tiền của chính phủ và có mệnh giá đấu thầu hợp pháp. Đồng xu thỏi có thể có độ mịn từ 91,9% (22 karat) đến độ tinh khiết 99,99% (24 karat). Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland định nghĩa tiền đầu tư cụ thể hơn là tiền xu được đúc sau năm 1800, có độ tinh khiết không dưới 900 phần nghìn và đang hoặc đã được đấu thầu hợp pháp tại quốc gia xuất xứ của chúng. Theo luật của Hoa Kỳ, "đồng xu" không đáp ứng yêu cầu cuối cùng trong số này hoàn toàn không phải là đồng xu thỏi, và thay vào đó phải được quảng cáo dưới dạng "round". Đồng xu thỏi được bán với giá cao hơn giá thị trường của kim loại trên các sàn giao dịch hàng hóa. Lý do bao gồm kích thước tương đối nhỏ và chi phí liên quan đến sản xuất, lưu trữ và phân phối. Số tiền phí bảo hiểm thay đổi tùy thuộc vào chủng loại, trọng lượng của đồng xu và kim loại quý. Phí bảo hiểm cũng bị ảnh hưởng bởi nhu cầu hiện hành. Tùy thuộc vào một số yếu tố, giá trị số cũng có thể có ảnh hưởng trực tiếp đến giá của đồng xu thỏi. Dòng xu bạc thỏi Đại bàng bạc Mỹ và Xu lá phong Canada là những đồng tiền duy nhất có sẵn bằng vàng, bạc, platin và palladium. Tổng quan. Không giống như các sản phẩm tài chính cổ điển của ngân hàng (giá trị danh nghĩa như tiền gửi tiết kiệm hoặc trái phiếu), tiền xu thỏi là tài sản hữu hình thể hiện giá trị kim loại. Tài sản thực có thể bảo vệ khỏi lạm phát vì chúng được giao dịch theo giá trị thị trường hiện tại. Tùy thuộc vào các kim loại quý chủ yếu chứa trong các đồng xu thỏi, có sự phân biệt giữa vàng, bạc và hiếm hơn là đồng xu đúc bằng bạch kim và palladium. Chúng được gọi là tiền thỏi vì mục đích chính của chúng là đầu tư. Tiền vàng và bạc nói riêng thường được đúc với số lượng lớn hơn nhiều so với các kim loại quý khác. Đồng xu thỏi được đúc từ các kim loại quý như vàng, bạc, bạch kim hoặc palladium có độ tinh khiết cao. Đặc điểm cơ bản, ngoài vẻ ngoài hầu như không thay đổi, là mức phí bảo hiểm trên giá trị kim loại mà chúng được bán khá là nhỏ. Nó chỉ là kết quả của chi phí đúc tiền xu, đắt hơn so với đúc thanh và bán chúng. Ngược lại, đối với người sưu tập, họ tập trung vào giá trị mang tính sưu tầm như độ quý hiếm, chất lượng của xu..., giá trị này có thể cao hơn đáng kể so với giá trị vật chất thuần túy của đồng xu.
19,823,038
70618699
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19823038
Hư nghĩ trấn Vĩnh Thử Tiêu
Hư nghĩ trấn Vĩnh Thử Tiêu (tiếng Trung: 永暑礁虛擬鎮; bính âm: "Yǒngshǔ jiāo qūnǐzhèn") là một hư nghĩ trấn (tương đương thị tứ, tổ dân phố ở Việt Nam) thuộc thẩm quyền của trấn Nam Sa, thành phố Tam Sa, tỉnh Hải Nam, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Khu vực của hư nghĩ trấn bao gồm đảo nhân tạo và vùng phụ cận đá Chữ Thập thuộc quần đảo Trường Sa. Đơn vị dân cư này có mã phân chia hành chính ban đầu là 469038 và mã phân chia hành chính hiện tại là 460322.
19,823,054
925152
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19823054
Giải vô địch bóng rổ thế giới 2023 (vòng cuối cùng)
Vòng cuối cùng cũng chính là vòng đấu loại trực tiếp của Giải vô địch bóng rổ thế giới 2023, bao gồm 2 đội đứng đầu các bảng I, J, K, L. Giai đoạn này sẽ thi đấu với hình thức đấu loại trực tiếp, với tất cả các trận đấu sẽ được tổ chức tại SM Mall of Asia Arena, Pasay, Philippines. Các đội thua ở tứ kết sẽ gặp nhau tại các trận đấu phân hạng để xác định các đội đứng từ vị trí thứ 5 đến thứ 8. Sơ đồ thi đấu. Phân hạng 5–8. "Tất cả các trận đấu được diễn ra theo (UTC+8)."
19,823,063
925152
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19823063
Giải vô địch bóng rổ thế giới 2023 (Bảng I)
Bảng I là một trong bốn bảng đấu trong vòng 2 của Giải vô địch bóng rổ thế giới 2023, diễn ra từ ngày 1 đến ngày 3 tháng 9 năm 2023, bao gồm 4 đội, 2 đội đứng đầu bảng A và 2 đội đứng đầu bảng B. Kết quả của giai đoạn vòng bảng cũng sẽ được tính vào bảng xếp hạng, các đội sẽ đối đầu với 2 đội của các bảng đấu khác. Tất cả các trận đấu của bảng diễn ra tại Đấu trường Araneta, Thành phố Quezon, Philippines. Hai đội đứng đầu bảng sẽ giành vé vào vòng cuối cùng, đội đứng thứ ba sẽ được phân vào các vị trí từ 9 đến 12, đội cuối bảng sẽ được phân vào các vị trí từ 13 đến 16. Các trận đấu. "Tất cả các trận đấu được diễn ra theo (UTC+8)."
19,823,064
925152
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19823064
Giải vô địch bóng rổ thế giới 2023 (Bảng J)
Bảng J là một trong bốn bảng đấu trong vòng 2 của Giải vô địch bóng rổ thế giới 2023, diễn ra từ ngày 1 đến ngày 3 tháng 9 năm 2023, bao gồm 4 đội, 2 đội đứng đầu bảng C và 2 đội đứng đầu bảng D. Kết quả của giai đoạn vòng bảng cũng sẽ được tính vào bảng xếp hạng, các đội sẽ đối đầu với 2 đội của các bảng đấu khác. Tất cả các trận đấu của bảng diễn ra tại SM Mall of Asia Arena, Pasay, Philippines. Hai đội đứng đầu bảng sẽ giành vé vào vòng cuối cùng, đội đứng thứ ba sẽ được phân vào các vị trí từ 9 đến 12, đội cuối bảng sẽ được phân vào các vị trí từ 13 đến 16.